Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

Thực chất của âm mưu chống phá Đảng là gì?

TL - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc hậu. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc có chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 90 năm qua.

Chúng ta vô cùng tự hào về những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, về sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện của đất nước ta hiện nay. Nhưng các thế lực thù địch chưa bao giờ chúng từ bỏ âm mưu thủ đoạn chống phá của mình đối với cách mạng Việt Nam với những thắng lợi và thành quả lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúngphủ nhận vai trò của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng triệt để lợi dụng những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để đưa ra những luận điệu nhằm tuyên truyền, kích động cán bộ, đảng viên, hoài nghi về Đảng, xa rời tôn chỉ, mục đích do Đảng đặt ra trong hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước. Đưa ra luận điệu phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một sự bảo thủ, không chịu cải cách về chính trị, chính điều này dẫn đến sự tụt hậu về kinh tế – xã hội của Việt Nam. Tuyên truyền, vu cáo, xuyên tạc cho rằng: Đảng Cộng sản du nhập chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã gây ra cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam – Bắc; là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của Việt Nam. Tập trung chống đối, phê phán việc đưa ra quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ảo tưởng; vu cáo Đảng tiêu tốn ngân sách, thiếu năng lực quản lý, điều hành,độc tài, tham nhũng, biến dân chúng thành nô lệ kiểu mới. Yêu cầu đổi tên Đảng; đất đai phải có sở hữu tư nhân; thừa nhận xã hội dân sự; đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo. Trên cơ sở đó, chúng cho rằng con đường cách mạng của Việt Nam từ năm 1930 đến nay là sai lầm, thành tựu hơn 30 năm đổi mới của Việt Nam thực chất là việc thay đổi dần theo mô hình của xã hội Tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai, chúng đẩy mạnh các hoạt động đòi xét lại, đưa ra các luận điệu xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam.Tập trung chống phá và soi xét các hoạt động của cán bộ, đảng viên; đưa ra những luận điệu đòi xét lại các vụ việc như vụ “Cải cách ruộng đất”, đồng thời xuyên tạc lịch sử, cho ra đời những nội dung phản động, chống lại Đảng, Nhà nước.Để hỗ trợ cho hoạt động tuyên truyền các luận điệu trên, Các thế lực thù địch tăng cường các cuộc vận động ngầm trong số các đối tượng cơ hội chính trị, lôi kéo số cán bộ, đảng viên làm việc tại các cơ quan Trung ương trên địa bàn Thành phố Hà Nội để phát triển lực lượng, nâng cao uy thế. Những hoạt động này của các thế lực thù địch đã gây ra sự hoài nghi trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, dẫn đến hiện tượng mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong tư tưởng chính trị ở một số bộ phận.

Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.Chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về công tác tổ chức, cán bộ, nhằm gây chia rẽ nội bộ, kích động gây mâu thuẫn, mất đoàn kết giữa những cán bộ, đảng viên về các vấn đề như: vùng miền, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ, lịch sử cá nhân nhằm hạ bệ uy tín, từ đó đẩy mạnh chuyển hóa, bộ phận cán bộ, đảng viên, qua đó, nhằm mục đích tìm kiếm, tuyển chọn những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị để móc nối, xây dựng cơ sở.Đăng tải nhiều bài viết, bình luận xuyên tạc về chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong các Hội nghị Trung ương 4, Trung ương 5, Trung ương 6 khi Đảng Cộng sản Việt Nam xử lý các vụ vi phạm các cán bộ lãnh đạo Nhà Nước thì chúng cho rằng đó là thanh trừng nội bộ nhằm xuyên tạc hạ bệ uy tín lãnh đạo, làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào công tác tổ chức, cán bộ của Đảng.

Thực chất, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên đều dựa trên cơ sở sự hậu thuẫn, giúp sức cả về vật chất, tinh thần của các thù địch lưu vong chống phá cách mạng Việt Nam. Đấu tranh với thế lực thù địch, phản động và tay sai của chúng là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, khó khăn đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội, dựa trên các hình thức, phương pháp đấu tranh khác nhau. Trong đó, nhận diện, vạch trần các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có vai trò rất quan trọng giúp quần chúng nhân dân ta hiểu, nhận thức sâu sắc bản chất, dã tâm của chúng, từ đó đoàn kết, tin tưởng vào sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng, công cuộc lãnh đạo chống tham ô tham nhũng làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng,  đồng lòng chung sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
x

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

Ý nghĩa của sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

TL - Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. 

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. 

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Người khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

 Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi. Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng. 

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chínhtrị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
x

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Giữ vững bản chất cách mạng

TLCT - Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Dân tộc Việt Nam chìm trong đêm dài nô lệ. Nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống ách áp bức, bóc lột của thực dân cướp nước và phong kiến tay sai. Các phong trào diễn ra mạnh mẽ, tràn đầy khí phách bất khuất và sáng ngời tinh thần yêu nước, nhưng tất cả đều không thành công, vì thiếu một đường lối đúng.

Trong bối cảnh ấy, Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, đã bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước, cứu dân, và Người đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Người, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam khi đó (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) đã họp Hội nghị hợp nhất thành một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. 90 năm qua, dù con đường đi lên có lúc quanh co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng do có bản lĩnh vững vàng, thực sự khiêm tốn, cầu thị, Đảng ta nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, cho nên Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, không một thế lực nào ngăn cản nổi. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX, mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của công cuộc đổi mới, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Để có được những thành quả vĩ đại đó, Đảng ta và nhân dân ta đã phải đổ bao xương máu, gánh chịu biết bao hy sinh. Chỉ riêng cuộc "khủng bố trắng" của thực dân Pháp trong những năm 1931 - 1932, đã có hàng vạn cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị giam cầm, tù đày, giết hại; nhiều đồng chí lãnh đạo xuất sắc của Đảng như: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai... bị sát hại. Trong các nhà tù khét tiếng của địch như Côn Đảo, Sơn La, Hoả Lò, Lao Bảo, Phú Quốc,... giam cầm, tra tấn hết sức dã man những người cộng sản; riêng ở nhà tù Côn Đảo có 793 đồng chí hy sinh; ở Kon Tum có 339 đồng chí bị thủ tiêu. Trong những năm 1954 - 1959, ở miền Nam có 466.000 đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị giết. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã có gần 160.000 đảng viên hy sinh...

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là một sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, vĩ đại, "một cuộc chiến đấu khổng lồ" như Bác Hồ đã dạy, nhưng cũng cực kỳ khó khăn, phức tạp. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước bên cạnh mặt thuận lợi, thời cơ, cũng có nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Chúng ta đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp phải giải quyết.
x

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

Sự dối trá của những kẻ bồi bút

TLCT - Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang quyết liệt đấu tranh chống tham nhũng, thời gian qua trên các diễn đàn, trên các trang mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết của nhiều tổ chức, cá nhân tự xưng là đấu tranh cho dân sinh, dân chủ nhằm mục đích trục lợi cá nhân, nhận lấy những đồng tiền bẩn thỉu của các tổ chức phản động chống phá cách mạng Việt Nam sống đỡ qua ngày chỉ với một mục tiêu là bôi nhọ mục đích và ý nghĩa tốt đẹp của công cuộc chống tham nhũng của Đảng ta. Họ cho rằng Việt Nam không thể chống được tham nhũng, muốn chống tham nhũng phải lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, phải đa đảng đối lập. Cho rằng “tham nhũng thuộc về bản chất của chế độ, không thể cải tạo được, chính vì thế, cần phải làm một cuộc cách mạng để thay đổi nó về bản chất; tức là phải hủy bỏ cái chế độ sinh ra nó, thay chế độ độc tài, đơn đảng…”  Đây thực chất là thuật Ngụy biện, Ở Việt Nam thời gian qua, đúng là có lúc, có nơi, có thời điểm làm chưa thật tốt việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhưng hiện nay, xét một cách tổng thể, Toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị đã và đang đấu tranh không khoan nhượng và phát hiện ra nhiều vụ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đã có nhiều các vụ tham nhũng, lãng phí được đưa ra tòa xét xử, nhiều tổ chức, cá nhân làm thất thoát lớn tài sản của quốc gia, nhiều đại án đã và sẽ được đưa ra ánh sáng..có thể thấy rằng Không có vùng cấm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
x

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2020

90 năm dưới lá cờ vẻ vang của Đảng cộng sản Việt Nam

TLCT - Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua.

Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”; “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. 90 năm xây dựng và trưởng thành, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại. Đó là:

Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xoá bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Thứ ba: Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Với những thắng lợi đã giành được trong 90 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.

Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, sáng suốt lãnh đạo toàn dân tộc, trước mắt thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2016 - 2020 do Đại hội lần thứ XII đề ra. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thực tiễn 90 năm qua đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước ta có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hoà bình và tiến bộ của nhân loại.

Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
x

Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2020

Tham gia mạng xã hội - cần tỉnh táo và có trách nhiệm


Nhìn lại vụ việc để thấy rõ, nếu không tiếp nhận và tự đánh giá thông tin một cách chọn lọc, người dùng mạng xã hội rất dễ bị "mắc bẫy," tin theo những thông tin bịa đặt, luận điệu xuyên tạc.

Sau vụ việc vi phạm pháp luật, đau lòng ở Đồng Tâm, trên mạng xã hội lan tràn rất nhiều luồng thông tin khác nhau, thậm chí nhiễu loạn. Trong biển thông tin đó có nhiều thông tin sai lệch, bịa đặt, suy diễn vô căn cứ, chỉ trích chính quyền địa phương, nói xấu Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Lực lượng chức năng bước đầu xác định một số cá nhân, tổ chức còn lợi dụng sự kiện này để kích động, làm nóng tình hình với âm mưu bạo loạn, gây rối. Vụ việc đang tiếp tục được các cơ quan có thẩm quyền khẩn trương vào cuộc giải quyết, nhằm xử lý nghiêm những kẻ vi phạm pháp luật, giúp người dân xã Đồng Tâm ổn định cuộc sống.

Nhìn lại vụ việc để thấy rõ, nếu không tiếp nhận và tự đánh giá thông tin một cách chọn lọc, người dùng mạng xã hội rất dễ bị "mắc bẫy," tin theo những thông tin bịa đặt, luận điệu xuyên tạc, thậm chí vi phạm các quy định của pháp luật khi phát tán, lan tỏa những thông tin này.

Tỉnh táo trước thông tin nhiễu loạn

Việt Nam hiện có hơn 400 trang mạng xã hội được cấp phép hoạt động, trong đó Facebook và YouTube là hai mạng xã hội có ảnh hưởng nhất. Riêng Facebook có hơn 60 triệu người dùng tại Việt Nam.

Sử dụng mạng xã hội đã trở thành thói quen của phần đông người dân Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ. Bên cạnh những người sử dụng mạng xã hội với mục đích lành mạnh như kết bạn, tâm sự, chia sẻ...

Không ít kẻ lợi dụng mạng xã hội để phát tán các thông tin xấu, thông tin độc hại nhằm kích động, gây rối. Trong đó phải kể đến hàng loạt chuyên trang của các tổ chức phản động lưu vong, thù địch, chống đối.

Nhìn lại những ngày qua, có thể thấy thông tin về vụ việc ở Đồng Tâm rất “nóng” trên các trang mạng xã hội, trong đó rất nhiều thông tin lệch lạc, sai sự thật. Dù không có nguồn tin đáng tin cậy, không có mặt tại hiện trường, vậy mà không ít người vẫn đăng tải những thông tin vô căn cứ, tường thuật diễn biến vụ việc như thể đang được chứng kiến.

Nhiều Facebooker dù không hiểu bản chất sự việc, nhưng vẫn đăng các bài bình luận mang tính chủ quan, phiến diện, mục đích gây sự chú ý, câu like, câu view. Họ bình luận ác ý, dùng ngôn ngữ thiếu văn hóa để miệt thị chính quyền, các cơ quan chức năng.

Đáng tiếc là nhiều người tham gia mạng xã hội khi tiếp nhận những thông tin sai lệch đó lại hùa theo, bình luận theo suy đoán chủ quan, chẳng khác “đổ thêm dầu vào lửa,” khiến vụ việc ở Đồng Tâm bị “biến dạng,” thay đổi bản chất trên các trang mạng xã hội.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, những phần tử bất mãn, cơ hội lợi dụng cơ hội phát tán thông tin xấu, độc, sai sự thật, tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Nhẫn tâm hơn, không ít kẻ sử dụng hình ảnh các chiến sỹ công an đã hy sinh và gia đình, người thân của họ để đưa thông tin sai trái với ý đồ đen tối, nhằm lợi dụng, lôi kéo những người tham gia mạng xã hội chưa có ý thức cảnh giác phụ họa theo, làm lan rộng thông tin xấu độc, kích động gây rối, bạo loạn.

Thực tế trong gần ba năm qua, Trung ương, chính quyền địa phương đã rất quan tâm giải quyết các tồn tại ở Đồng Tâm. Thanh tra Chính phủ, Thanh tra thành phố Hà Nội đã vào cuộc và có kết luận: Theo quy định của pháp luật về đất đai, toàn bộ đất sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng, được Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội giao đất cho các đơn vị quân đội quản lý và sử dụng vào mục đích quốc phòng.

Nhiều cuộc đối thoại giữa lãnh đạo thành phố, lãnh đạo Thanh tra Chính phủ với người dân xã Đồng Tâm và các xã tiếp giáp với sân bay Miếu Môn đã được tổ chức công khai, minh bạch, đúng pháp luật, để nhân dân hiểu rõ và đồng thuận với các chủ trương của thành phố, của Nhà nước.
Đồng thời, Thành phố cũng quan tâm giải quyết thấu đáo quyền lợi cho các hộ dân liên quan trong khu vực sân bay Miều Môn, theo đúng quy định.

Từ ngày 31/12/2019, một số đơn vị của Bộ Quốc phòng phối hợp với lực lượng chức năng tiến hành xây dựng tường rào bảo vệ Sân bay Miếu Môn theo kế hoạch. Nhưng đến sáng 9/1/2020, một số đối tượng đã sử dụng lựu đạn, bom xăng, dao phóng... tấn công người thi hành công vụ, sát hại 3 cán bộ, chiến sỹ công an. Trong quá trình này, 1 đối tượng chống đối chết, 1 đối tượng bị thương.

Diễn biến vụ việc đã được các cơ quan chức năng, chính quyền Thành phố thông tin công khai trước công luận. Vậy mà các phần tử thiếu thiện chí đã tìm cách đưa các thông tin mập mờ, thậm chí thông tin bóp méo sự thật… gây hoang mang dư luận, biến những kẻ vi phạm pháp luật, hung hãn, sát hại người bảo vệ pháp luật, thực thi công vụ thành những “người hùng.”

Nhiều kẻ còn đi xa hơn trong việc phát tán thông tin, hình ảnh không đúng sự thật để kêu gọi sự can thiệp của một số tổ chức bên ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam.

Bởi vậy, mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội cần hết sức tỉnh táo, sáng suốt, chọn lọc, tiếp cận những thông tin chính thức, chính thống, không nghe theo và phát tán những thông tin thiếu căn cứ, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội.
Bảo đảm thực thi theo pháp luật

Đối diện với tin giả, tin xấu độc trên mạng xã hội không phải là câu chuyện của riêng Việt Nam, mà là vấn nạn của cả thế giới. Để đối phó với tình trạng này, nhiều nước trên thế giới đã đặt ra những đạo luật, quy định xử lý rất nghiêm minh, có tính răn đe. Điển hình, tại Đức đã thông qua Luật NetzDG có hiệu lực từ tháng 10/2017.

Luật ra đời nhằm đáp lại lời kêu gọi kiểm soát mạng xã hội trong bối cảnh thông tin giả, kỳ thị chủng tộc lan tràn trên các kênh này. Theo Luật này, các công ty quản lý mạng xã hội có thể bị phạt hơn 60 triệu USD nếu không loại bỏ thông tin được xác định "phi pháp rõ ràng" trong 24 giờ kể từ thời điểm được thông báo. Với những trường hợp khó phân định hơn, đơn vị quản lý có 7 ngày để làm việc.

Luật đồng thời yêu cầu các trang mạng xã hội hỗ trợ để người dùng có thể nhanh chóng thông báo với nhà quản lý những trường hợp vi phạm. Trên phạm vi châu Âu, tháng 11/2017 Ủy ban châu Âu (EC) đã bắt đầu tổ chức tham vấn về chiến lược ngăn chặn tin giả. EC thông báo đến tháng 10/2018 các mạng xã hội và nền tảng công nghệ phải đạt được quy tắc ứng xử chống tin giả, sau đó EC sẽ quyết định các biện pháp bổ sung.

Một ví dụ khác có thể kể đến là trong năm 2019, Singapore đã thông qua đạo luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối trực tuyến, trong đó có các hình phạt nghiêm khắc đối với việc sử dụng mạng xã hội để lan truyền tin giả với dụng ý xấu, gây tổn hại lợi ích cộng đồng.

Khi phát hiện tin giả (tuyên bố, bài viết sai sự thật) trên mạng xã hội, các nhà quản lý Singapore có quyền yêu cầu người dùng mạng xã hội liên quan đăng “cải chính” bên cạnh tin giả.

Nếu không tuân thủ yêu cầu này, tùy theo mức độ, họ có thể bị phạt lên đến 20.000 đô la Singapore hoặc tối đa 12 tháng tù hoặc cả hai. Người lan truyền tin giả với dụng ý xấu, gây tổn hại nghiêm trọng lợi ích cộng đồng có thể đối mặt với bản án 10 năm tù.

Các cơ quan quản lý Singapore cũng có quyền yêu cầu các công ty mạng xã hội đăng cải chính bên cạnh tin giả hoặc gỡ bỏ tin trong các trường hợp nghiêm trọng hoặc khẩn cấp.

Họ cũng có quyền yêu cầu các công ty mạng xã hội gỡ bỏ các tài khoản giả hay các phần mềm tự động được sử dụng để lan truyền tin giả. Nếu không tuân thủ, các công ty mạng xã hội có thể bị phạt lên đến 1 triệu đô la Singapore.

Tại Việt Nam, Luật An ninh mạng có hiệu lực từ 1/1/2019, tạo hành lang pháp lý để đáp ứng yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng.

Theo quy định của Luật, các tổ chức, cá nhân soạn thảo, đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung vi phạm phải gỡ bỏ thông tin khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm.

Tại Điều 8, Luật An ninh mạng quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm sử dụng không gian mạng tổ chức, lôi kéo, xúi giục, đào tạo, huấn luyện người chống nhà nước (ví dụ như hành vi đăng tải, phát tán thông tin kích động biểu tình trái pháp luật, kích động gây rối an ninh, trật tự); xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; phát tán thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế-xã hội gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác...

Liên quan đến vụ viêc ở Đồng Tâm, trước tình trạng lan tràn thông tin thiếu chuẩn xác, thiếu căn cứ, thông tin xấu độc trên mạng xã hội, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã yêu cầu các nhà cung cấp mạng xã hội phải tuân thủ luật pháp của Việt Nam, gỡ bỏ các nội dung xuyên tạc, kích động; đồng thời xử lý nghiêm hành vi vi phạm trên mạng xã hội.

Ngày 10/1/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ đã tạm giữ hình sự đối tượng Chung Hoàng Chương, chủ tài khoản Facebook “Chương May Mắn” do đăng tải nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc, làm mất uy tín của cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang trong vụ chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Đồng Tâm.

Theo đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan chức năng của Bộ đã phối hợp yêu cầu các mạng xã hội trong và ngoài nước gỡ bỏ các nội dung vi phạm pháp luật, thông tin sai sự thật, kích động bạo lực trên các nền tảng, đặc biệt là các nền tảng xuyên biên giới.

Đồng thời, đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông cũng khuyến cáo người dân cần tỉnh táo, trang bị bộ lọc với các thông tin không được kiểm chứng tung ra với mục đích phá hoại sự ổn định kinh tế-xã hội tại Việt Nam.

Trước các luồng thông tin đa chiều, mỗi người sử dụng mạng xã hội đều cần tỉnh táo, sáng suốt để nhận diện được những thông tin xấu độc, không để các thông “nhiễu” chi phối làm hiểu sai bản chất sự việc.

Bên cạnh đó, mỗi người đều cần có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, tuân thủ nghiêm quy định Luật An ninh mạng và Luật liên quan, không tham gia kích động, gây hoang mang dư luận xã hội./.

x

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2020

Những âm mưu thâm độc

TL - Có thể nhận thấy, các thế lực thù địch xuyên tạc quyết tâm phòng, chống tham nhũng, suy thoái của Đảng ta nhằm ba mục đích:

Thứ nhất, hạ uy tín để phủ định vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và Nhà nước, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi vì, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng lãnh đạo.

Thứ hai, chống phá sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong đấu tranh đẩy lùi tình trạng tham nhũng, suy thoái, không để cán bộ, đảng viên rơi vào tình trạng suy thoái, làm cho “nền kinh tế đất nước kiệt quệ” do tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thứ ba, lấy cớ cho rằng Đảng ta không thể lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái thành công để kích động, xúi giục, lôi kéo, hỗ trợ các phần tử phản động, bất mãn trong nước và ngoài nước tăng cường các hoạt động chống phá dưới chiêu bài lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận để gây hoang mang, hoài nghi trong nhân dân, làm mất an ninh - trật tự. Từ đó, tác động để cán bộ, đảng viên sẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đất nước rơi vào khủng hoảng, mưu đồ “diễn biến hòa bình” của chúng thành công.

Cần có cái nhìn đúng đắn, đầy đủ về phòng, chống tham nhũng


TLCT - Tham nhũng là hiện tượng phổ biến mang tính toàn cầu. Phản ứng đối với tham nhũng mang tính xã hội rộng lớn ở khắp mọi nơi, mọi quốc gia, dân tộc. Một nhận thức chung về tham nhũng được đa số thừa nhận, đó là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát triển. Tham nhũng nảy sinh, tồn tại và hoành hành do sự hư hỏng, biến chất không chỉ của những người có chức quyền mà còn của cả những người được giao thực hiện những công vụ bình thường đã làm biến dạng quyền hạn và công vụ được giao phó. Nói cách khác, quyền hạn hay công vụ trao cho họ đáng lý ra phải được thực hiện vì lợi ích chung của cả xã hội thì lại bị lạm dụng vào mục đích trục lợi cho riêng cá nhân.

Thông thường, những kẻ tham nhũng được coi là những kẻ tham ô và ngược lại, bởi giữa hai hành vi tham nhũng và tham ô đều có điểm giống nhau ở chủ thể thực hiện hành vi và mục đích của hành vi. Nghĩa là cả hai hành vi này đều do những kẻ có quyền, hay lợi dụng công vụ để trục lợi bất chính. Theo Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2002), tham nhũng là “Lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”, tham ô là “Lợi dụng quyền hạn và chức trách để ăn cắp của công”. Trên thực tế, nếu so sánh với hành vi tham ô, thì thủ đoạn, cách thức tham nhũng lại kín kẽ hơn, tinh vi hơn, xảo trá hơn, và, phạm vi, quy mô tham nhũng cũng có mức độ rộng hơn, gây hậu quả trầm trọng hơn rất nhiều. Tham nhũng hiện không chỉ dừng lại ở hành vi của một cá nhân có chức quyền, mà đâu đó còn là hành vi của cả một tập thể ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị - những người có quyền hạn và có cả “ô dù” che chắn từ cấp cao hơn. Có những hành vi tham nhũng không chỉ ngấm ngầm trong nội bộ một cơ quan, đơn vị mà còn là sự cấu kết một cách có tổ chức, có liên kết với một vài cơ quan, đơn vị khác. Hành vi tham nhũng không chỉ thường hoành hành ở lĩnh vực kinh tế, như trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước,... mà điều đáng quan ngại là nó còn len lỏi cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, ở cả trong các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý, như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, nhân đạo, từ thiện,… Nếu chỉ nói riêng những thiệt hại to lớn về kinh tế cho nền kinh tế quốc dân (ấy là còn chưa nói tới những hậu quả khôn lường về chính trị, xã hội và tư tưởng trong đời sống xã hội) do những kẻ tham nhũng gây ra thì cũng đã là căn cứ đầy đủ để nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, chính thức ghi tội danh tham nhũng vào Bộ luật Hình sự của mình.

Thực tiễn hơn 30 năm thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta tăng trưởng ở nhịp độ khá nhanh nhưng mặt trái của nó, đã làm tha hóa, hư hỏng không ít cán bộ, đảng viên (nhất là ở trong lĩnh vực kinh doanh doanh nghiệp). Hằng năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều vụ tham nhũng, mỗi vụ làm thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước hằng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng, nhiều bị can, (trong đó không ít cán bộ có chức có quyền) đã và đang bị xử lý trước tòa.

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2020

47 năm sự kiện ký kết Hiệp định Paris (27/01/1973-27/01/2020)

TLCT - Cách đây đúng 47 năm, ngày 27/1/1973 tại Pari, "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam", gọi tắt là Hiệp định Pari về Việt Nam, đã được ký kết. Hiệp định đã buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. 

Văn kiện pháp lý quốc tế này là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao cam go nhất, lâu dài nhất, trong lịch sử hơn 50 năm của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari là một thắng lợi cực kỳ to lớn, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. 

Cuộc đàm phán Pari kéo dài 5 năm, từ 15/3/1968 đến 27/1/1973. Giai đoạn đàm phán dưới thời Tổng thống Johnson diễn ra từ 15/3/1968 đến 31/10/1968. Kết thúc giai đoạn này Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom và chấp nhận để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tham gia Hội nghị Pari.

Tháng 1/1969, Nixon nhậm chức Tổng thống Mỹ. Đến ngày 18/1/1969, hội nghị 4 bên họp phiên đầu tiên dưới hình thức bàn tròn, đoàn đại biểu của MTDTGPMNVN xếp ngang hàng với các đoàn đại biểu khác. Trên bàn đàm phán, cuộc đấu trí diễn ra quyết liệt giữa các bên đàm phán, đặc biệt là giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và trợ lý Tổng thống Mỹ Kissinger.

Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo Hiệp định với những điều khoản yêu cầu Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo.

Ngày 12/12/1972 cuộc đàm phán phải tạm dừng. Đêm 18/12/1972, tổng thống Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng việc 38 "pháo đài bay B52" và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ nổ tung ngay trên bầu trời Hà Nội. Đây là đòn quyết định nhất buộc Nixon phải tuyên bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị cho phía Mỹ gặp đoàn đại biểu Việt Nam tại Pari để ký hiệp định chấm dứt chiến tranh. 

Ngày 23/1/1973, cố vấn Lê Đức Thọ cùng trợ lý Tổng thống Mỹ Kissinger đã ký tắt văn bản Hiệp định. Ngày 27/1/1973 đã diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định tại Pari, buộc Mỹ phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam, đồng thời làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Paris là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Hiệp định Pari còn là bằng chứng tất yếu của sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Khác hẳn với lịch sử ngoại giao trên thế giới như các Hội nghị Teheran, Yanta, Posdam, thành công của cuộc đàm phán đưa tới Hiệp định Pari gắn liền với phong trào của nhân dân thế giới đoàn kết và ủng hộ Việt Nam. Việt Nam đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước Xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ chí tình của Đảng Cộng sản Pháp, nhân dân Pháp và phong trào cánh tả, phong trào không liên kết, nhân dân các nước tư bản, nhân dân Mỹ và phong trào phản chiến của binh lính Mỹ.

Sự hình thành của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân. 

47 năm đã qua đi, nhưng ý nghĩa lịch sử của việc ký hiệp định pari vẫn còn nguyên giá trị. Trong tình hình mới, với xu thế quốc tế đa cực, phức tạp, thuận lợi và thách thức đan xen, mỗi chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm đối ngoại của Đảng và nhà nước ta là chủ động hội nhập quốc tế, không để bị cô lập về ngoại giao, tích cực phát huy vai trò thành viên trong các tổ chức quốc tế và khu vực. Trong các hoạt động đối ngoại luôn đặt lợi lích quốc gia dân tộc là lợi ích cao nhất. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng đưa ra các quan điểm chủ quan và thù địch nhằm xuyên tạc ý nghĩa lịch sử của hội nghị pari, xuyên tạc thành quả ngoại giao cách mạng Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo, nhận rõ bộ mặt và âm mưu của chúng và đấu tranh kiên quyết, tiếp tục phát huy trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và quan hệ quốc tế.
x

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020

Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo như thế nào?

TLCT - Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, tín đồ tôn giáo là lực lượng xã hội dễ lừa bịp, kích động để tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng chống đối. Ngay từ khi đặt chân vào Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo các giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị phản động. Khi Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam (1975), viên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - Polga -  nói rằng: “Sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì lực lượng đấu tranh với cộng sản, chủ yếu là tôn giáo...”.

Lúc chúng ta bước vào công cuộc đổi mới, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch tuyên truyền rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang còn mạnh, chưa thể chuyển hoá ngay được nội bộ. Vì vậy, để làm cho Cộng sản Việt Nam suy yếu, biện pháp hữu hiệu nhất là dùng vấn đề tôn giáo và dân tộc để phá hoại an ninh, làm cho Việt Nam suy yếu...”.

Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như: Chúng có ý đồ thành lập “Uỷ ban liên tôn chống cộng”, lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để chờ bên ngoài can thiệp.
x

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2020

“Quốc tế hóa” vụ việc Đồng Tâm - một âm mưu gian trá, vô lương tâm

Bất chấp đạo lý và pháp lý, những ngày gần đây, các thế lực thù địch và kẻ xấu tiếp tục tung ra nhiều thông tin xuyên tạc hòng lôi kéo sự can thiệp của các tổ chức quốc tế đối với vụ việc xảy ra ở Đồng Tâm.
Nhưng những luận điệu không thuyết phục được dư luận bởi nó chẳng những lạc lõng so với sự thật mà còn bị chính những luật sư, nhà nghiên cứu ở nước ngoài phản đối. Chỉ những kẻ vô lương tâm mới có thể biện minh cho những hành vi giết người, chống người thi hành công vụ, khủng bố…
 
Kêu gọi, “hướng lái” dư luận quốc tế
 
Một số đài báo nước ngoài với cái nhìn thiếu thiện chí, thường xuyên xuyên tạc tình hình Việt Nam, như: BBC tiếng Việt, VOA, RFA, RFI… tiếp tục có nhiều bài viết sai sự thật. Tại Mỹ, đối tượng Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã lập ra cái gọi là nhóm “Hành động vì Đồng Tâm” và chuyển “Báo cáo về vụ tấn công ở Đồng Tâm” đến văn phòng một dân biểu liên bang Mỹ. Họ lợi dụng vị dân biểu với “truyền thống” hay thiên kiến với Việt Nam này để thổi phồng sự việc.
 
Một vị dân biểu liên bang khác ở Australia cũng được trang BBC tiếng Việt dẫn ý kiến hết sức chủ quan, phiến diện, vu cáo tình hình nhân quyền tại Việt Nam ngày càng "trở nên tồi tệ hơn", đưa ra những khuyến nghị vô lý đòi gây sức ép. Cái gọi là "Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế" lại coi sự việc thành cơ hội để can thiệp vào tình hình Việt Nam khi kêu gọi các thành viên Nghị viện châu Âu có áp lực gắn với các biểu quyết liên quan đến vấn đề kinh tế.
Nguồn: Báo QĐND
 
Tổ chức khủng bố Việt Tân cũng kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp, cổ xúy cho việc quyên góp ủng hộ “các nạn nhân Đồng Tâm”. Đối tượng Phạm Đoan Trang, thành viên cốt cán của tổ chức Voice-ngoại vi của Việt Tân còn soạn thảo báo cáo dày hàng chục trang bịa đặt, bóp méo sự việc ở Đồng Tâm để gửi tới các dân biểu, nghị viện nước ngoài. Sau khi Cơ quan An ninh điều tra đề nghị các tổ chức tín dụng rà soát, phong tỏa một số tài khoản có liên quan đến vụ án, nhiều đối tượng đã kêu gọi, phản đối việc phong tỏa tài khoản Vietcombank; kêu gọi tẩy chay ngân hàng…
 
“Quốc tế hóa” vụ việc Đồng Tâm - một âm mưu gian trá, vô lương tâm
Vật liệu nổ và hung khí các đối tượng dùng để chống đối lực lượng chức năng. Ảnh: TTXVN.
 
Xử lý sự việc đúng pháp luật, không vi phạm nhân quyền
 
Những luận điệu của các đối tượng trên thoạt nghe tưởng như tốt đẹp, tiến bộ, vì quyền con người nhưng nếu nhìn thẳng vào bản chất sự việc thì chỉ là những lời lẽ giả dối, vô lương tâm.
 
Sau khi sự việc xảy ra, Trung tướng Lương Tam Quang, Thứ trưởng Bộ Công an đã hai lần thông tin công khai trước báo chí về toàn bộ diễn biến sự việc. Theo đó, ngay sau hội nghị đối thoại của Thanh tra Chính phủ, các đối tượng trong cái gọi là "tổ Đồng thuận" chẳng những không lắng nghe, tiếp thu mà còn ráo riết chuẩn bị phương án, vũ khí để chống đối. Họ còn đe dọa bắt cán bộ, gây cháy, nổ UBND xã Đồng Tâm, gây cháy, nổ cây xăng Đồng Tâm để gây tiếng vang với dư luận bên ngoài.
 
Trước tình hình chống đối của các đối tượng, Công an TP Hà Nội phối hợp với các lực lượng của bộ tiến hành triển khai các chốt nhằm bảo đảm an toàn cho trụ sở xã, cán bộ xã, cán bộ thôn, các khu vực trọng yếu. "Hoàn toàn không có việc vào để bắt giữ. Lúc đó không hề có lệnh bắt giữ, dù biết rõ đây là nhóm quá khích. Đây chỉ là các tổ công tác bảo đảm tuyệt đối an toàn nhất các tình huống xảy ra", Trung tướng Lương Tam Quang khẳng định.
 
"Khi lực lượng chức năng đang triển khai các chốt bảo đảm an ninh ở khu vực cổng thôn Hoành thì có khoảng 20 đối tượng tấn công bằng lựu đạn, bom xăng, dao phóng lợn hàn tuýp sắt tấn công lực lượng chức năng. Lực lượng công an đã tuyên truyền, dùng loa thuyết phục, nhưng các đối tượng rất manh động, sau khi tấn công thì chúng rút vào mấy nhà, tiếp tục tấn công tổ công tác từ trong nhà ra. Tổ công tác đã dùng loa kêu gọi các đối tượng nhưng chúng vẫn ngoan cố, tấn công quyết liệt hơn, tiếp tục ném lựu đạn, bom xăng vào tổ công tác, sau đó rút vào cố thủ trong nhà...".
 
Do đó, tổ công tác đã tiến hành vây bắt các đối tượng phạm tội theo quy định pháp luật. Quá trình truy đuổi, các đối tượng tiếp tục dùng bom xăng, tuýp sắt gắn dao tấn công tổ công tác. Tổ công tác 3 người trong quá trình truy đuổi đã bị ngã và rơi xuống hố kỹ thuật (sâu khoảng 4m), nằm giáp sau nhà Lê Đình Hợi và Lê Đình Chức. Khi biết 3 chiến sĩ bị ngã xuống hố, các đối tượng đổ xăng, ném bom xăng, phóng hỏa thiêu chết 3 cán bộ, chiến sĩ. Trước tình huống đó, lực lượng công an phải nổ súng và bắt giữ hơn 30 đối tượng, thu giữ tại hiện trường các vũ khí, vật liệu nổ. Khi truy bắt, một đối tượng bị chết là Lê Đình Kình, đối tượng bị thương là Lê Đình Chức.
 
Qua tài liệu thu thập được cho thấy, một số tổ chức lưu vong, phần tử chống đối đã tài trợ tiền, hướng dẫn "nhóm Đồng thuận" cách làm bom xăng, tạo quả nổ, hướng dẫn mua sắm vật tư làm vũ khí… "Nhóm Đồng thuận” đã thể hiện rõ là một ổ nhóm tội phạm có tổ chức. Ngoài tuyên bố “tử chiến giữ đất”, “sẵn sàng giết 300-500 người”, nhóm này còn đe dọa lãnh đạo xã và các gia đình người dân không hợp tác với chúng. Chúng cũng thường xuyên viết đơn gửi các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế lu loa chính quyền đàn áp “dân oan”, hòng “quốc tế hóa” vấn đề, biến Đồng Tâm thành điểm nóng chính trị.
 
Qua những thông tin nêu trên cũng đã thể hiện rất rõ không thể gọi những kẻ vi phạm pháp luật nghiêm trọng là nạn nhân ở Đồng Tâm. Cho nên, những lời kêu gọi "ủng hộ", "đòi công lý", "vì nhân quyền" cho những đối tượng này là lạc lõng, phi lý.
 
Không thể biện minh cho tội phạm giết người, khủng bố
 
Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm, Trưởng văn phòng luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư Hà Nội), việc cơ quan điều tra khởi tố ban đầu lên đến 19 bị can về tội giết người là con số kỷ lục ít thấy trong một vụ án hình sự những năm gần đây. Đây là vụ án giết người, chống người thi hành công vụ với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Các đối tượng đã lên kế hoạch chặt chẽ, phân công nhiệm vụ và chuẩn bị vũ khí, hung khí nguy hiểm để đối phó với các lực lượng thực thi nhiệm vụ. Hành vi phạm tội của các đối tượng đã cấu thành tội giết người và tội chống người thi hành công vụ. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 123 và điều 330 Bộ luật Hình sự 2015. Trong vụ án này, với hậu quả 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh, nếu có căn cứ xác định là đồng phạm thì các đối tượng phải đối mặt hình phạt cao nhất đến tử hình. Bởi theo khoản 1, điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015, tình tiết trong vụ án cho thấy các đối tượng đã vi phạm tới cả 4 trường hợp phải chịu mức án nặng nhất: Giết hai người trở lên; giết người đang thi hành công vụ; có tính chất côn đồ; có tổ chức.
 
Theo thông tin từ cơ quan chức năng, đối tượng Nguyễn Văn Tuyển khi bị bắt đã khai thường xuyên được các đối tượng ở nước ngoài liên lạc tài trợ tiền, trong đó có liên lạc trao đổi thông tin và nhận tiền từ các đối tượng Nguyễn Văn Đài và Ngọc Tuấn Trần… Số tiền nhận được từ các tổ chức khủng bố, các đối tượng đã sử dụng một phần mua lựu đạn, bom xăng để sẵn sàng chống trả cơ quan chức năng, phần lớn số tiền còn lại chúng dùng để chi tiêu cá nhân. Đại tá Phan Nguyên Hùng, Phó cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho biết, các đối tượng ở Đồng Tâm đã nhiều lần nhận tiền của đối tượng bên ngoài, sử dụng để cử người đi mua vũ khí (10 quả lựu đạn); mua hàng trăm lít xăng chế tạo bom xăng và phân phát cho các đối tượng và một số người dân tiến hành những hoạt động theo chỉ đạo bên ngoài, đặc biệt là tụ tập đông người để cản trở các lực lượng thi hành nhiệm vụ.
 
Từ những thông tin trên, dưới góc độ nghiên cứu luật, một số luật sư cho rằng có yếu tố để xem xét tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” theo điều 113 Bộ luật Hình sự 2015.
 
Còn với việc phong tỏa các tài khoản ngân hàng, để phục vụ yêu cầu điều tra, mở rộng vụ án, trong đó có hành vi tài trợ khủng bố, cơ quan điều tra đã đề nghị các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước phối hợp rà soát, phong tỏa một số tài khoản có liên quan. Tài khoản Vietcombank Nguyễn Thúy Hạnh với số tiền hơn 500 triệu đồng bị phong tỏa là đúng pháp luật.
 
Được biết, từ lâu, Nguyễn Thúy Hạnh đã có nhiều hoạt động liên quan tới tổ chức khủng bố Việt Tân. Nhiều năm nay, Hạnh đã lập ra cái gọi là “quỹ 50k" ủng hộ các tù nhân lương tâm tài trợ cho một số đối tượng gây rối đã bị xử lý sau các vụ việc ở Đồng Nai, Bình Thuận, Hà Tĩnh… Cái gọi là “quỹ 50k” thực chất là tổ chức tài trợ cho những kẻ chống phá Nhà nước, là cánh tay nối dài của các tổ chức khủng bố Việt Tân, chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời... Cuối năm 2019, cái gọi là “quỹ 50k” do Hạnh khởi xướng đã được tổ chức khủng bố Việt Tân trao giải thưởng “nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2019”.
 
Vì vậy, người dân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác với những lời kêu gọi tẩy chay ngân hàng, tuyệt đối không tham gia các hoạt động quyên góp, ủng hộ, có thể vô hình trung vi phạm pháp luật, tiếp tay cho tổ chức khủng bố…
 
Những ý kiến phản bác dưới góc nhìn luật pháp quốc tế
 
Nhiều chuyên gia, luật sư, nhà nghiên cứu ở nước ngoài cũng đã lên tiếng phản bác, đồng tình với cách giải quyết sự việc nếu nhìn ở góc độ pháp luật và thông lệ quốc tế.
 
Luật sư người Mỹ gốc Việt Hoàng Duy Hùng đã có những phân tích với cái nhìn khách quan về sự việc theo góc độ luật pháp quốc tế. Ông cho biết: “Những người ở Mỹ khi đi mua một căn nhà, bất kỳ bất động sản nào đều có câu tiếng Anh rõ ràng là “Eminent domain” nghĩa là chủ quyền tối thượng của đất nước khi đất nước cần trưng dụng về vấn đề quốc phòng, công cộng, an ninh. Đây là nguyên tắc đầu tiên, là nguyên tắc tất cả người dân Hoa Kỳ, Australia, châu Âu, Canada… đều biết rất rõ. Nhà nước cần về vấn đề quốc phòng, công cộng, an ninh thì có quyền lấy, thu luôn, thu hồi, không có tranh cãi. Khi đó, nhà nước không cần báo cho dân chúng về nguyên do. Tôi lấy ví dụ ở Houston có cái sân bay quân sự Ellington Field, lúc người ta lấy thì chỉ nói là vấn đề quốc phòng, hỏi quốc phòng để làm gì thì được trả lời là không được phép hỏi”.
 
“Những người như gia đình ông Lê Đình Kình không tôn trọng luật pháp, nhất định biến khu vực đó trở thành tài sản của gia đình. Về vấn đề chống lại người thi hành công vụ ở Mỹ. Ở bang Texas, có cơ quan Texas Alcoholic Beverage Commission (TABC) là một cơ quan công cộng Texas chịu trách nhiệm xử lý việc mua bán và sử dụng đồ uống có cồn. Chỉ cần người bán bia, rượu cho người dưới 21 tuổi mà cơ quan này nắm được thông tin chứng cứ thì họ cho cả một tiểu đoàn cảnh sát vô bắt người đó, đóng cửa cửa hàng luôn. Nếu phản kháng thì tăng thêm tội là tấn công người thi hành công vụ. Người thi hành công vụ đúng hay sai chưa cần biết, nhưng phải tuân thủ ngay, sau mới có thể phản kháng hay kiến nghị. Nếu chống đối có thể bị bắn chết!”, luật sư Hoàng Duy Hùng phân tích
 
Phản bác những luận điệu từ nước ngoài “thương vay khóc mướn” cho "nhóm Đồng thuận", luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng: “Cách làm luật của người Mỹ là như vậy. Sao mấy ông bên này không ra mà bảo đó là luật pháp bất nhân đi mà lại chõ về Việt Nam để nói những chuyện kỳ cục như vậy. Chống người thi hành công vụ là tội phải xử nghiêm minh. Mỹ đã làm từ mấy trăm năm nay. Mình là người dân công chính thì phải khuyến khích người dân không được chống lại người thi hành công vụ. Nên người dân Đồng Tâm tấn công cảnh sát là có lỗi đầu tiên, còn nếu có gì không phải thì để tòa án xét xử sau. Nhà nước đã mở ra thì những người kia phải biết đón nhận theo luật pháp, hòa hợp dân tộc không có nghĩa là vô luật pháp. Cách làm của ông Kình là vô luật pháp, ông này tự biến mình thành cường hào, địa chủ, lãnh chúa trong Đồng Tâm”.
 
Ông Hồ Ngọc Thắng, Việt kiều tại Đức cho biết: Là người tốt nghiệp đại học luật và làm việc lâu năm trong ngành luật cho Nhà nước Đức, tôi nhận thấy việc thực thi những nguyên tắc nhà nước pháp quyền không chỉ cho phép mà còn yêu cầu sử dụng những biện pháp cứng rắn để đối phó với những hành động xem thường pháp luật. “Tôi cũng cực lực lên án những kẻ lợi dụng làm phức tạp sự việc Đồng Tâm để vu khống, xuyên tạc Đảng, Nhà nước. Họ gọi đó là “vụ thảm sát Đồng Tâm”, “chỉ có kẻ thù mới cho quân nổ súng vào dân”… Đặt vấn đề kiểu mập mờ như vậy là không ổn. Hoạt động của ông Kình và đồng bọn không phải là “bất bạo động” mà là khủng bố”, ông Hồ Ngọc Thắng nhận xét.
 
Rồi đây, sự việc sẽ tiếp tục được sáng tỏ khi các cơ quan pháp luật điều tra, truy tố, xử lý công minh, rõ người, rõ tội. Với tinh thần thượng tôn pháp luật, tin tưởng rằng dư luận trong nước và quốc tế sẽ hiểu đúng sự việc, ủng hộ chính quyền các cấp trong bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân, đẩy lùi những luận điệu đen tối muốn “quốc tế hóa” sự việc Đồng Tâm, không để biến vụ án hình sự nghiêm trọng thành điểm nóng phức tạp.
x
x

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...