Cuối thế kỷ XX, nhân loại phải giật mình cảnh tỉnh trước ba
nguy cơ lớn: một là chiến tranh công nghệ cao do chủ nghĩa đế quốc tiến
hành, với bộ mặt "chiến tranh sạch" nhưng đằng sau là hiểm hoạ hơn tất
cả các hiểm hoạ trước; hai là "diễn biến hoà bình" cũng của chủ nghĩa đế
quốc, cái công cụ đã làm tan rã những cường quốc từng là thành trì của
hoà bình và cách mạng thế giới, điều mà mọi cuộc chiến tàn khốc trước đó
của chủ nghĩa phát-xít không thể làm nổi; ba là "cách mạng sắc màu" -
sự cộng sinh giữa "diễn biến hoà bình" và bạo loạn chính trị - mà tác
giả một lần nữa không ai khác chính là chủ nghĩa đế quốc, một công cụ
khác giải quyết nốt phần còn lại của chiến tranh công nghệ cao và "diễn
biến hoà bình".
Có thể thấy rõ ràng là, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ không phải do
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc mà chính do sự trì trệ về
kinh tế - xã hội cùng sai lầm của Đảng và Nhà nước, và đó chính là thất
bại trước "diễn biến hoà bình". Tiếp sau sự sụp đổ của Liên Xô là sự tan
rã hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, rồi các cuộc "cách mạng sắc màu" -
một dị bản của "diễn biến hoà bình" có kết hợp với yếu tố bạo loạn lật
đổ - cũng được chủ nghĩa đế quốc thực hiện thành công ở một loạt nước.
Nhìn nhậnkhái quát về cuộc bạo loạn lật đổ ở một số nước, có thể thấy
mặc dù có những điểm không giống nhau, nhưng "cách mạng đường phố",
"cách mạng nhung", "cách mạng da cam"... chỉ là những tên gọi khác nhau
để chỉ một sản phẩm "sáng tạo" của chủ nghĩa đế quốc: công nghệ giành chính quyền thông qua biểu tình. Thực chất, đây là những cuộc đảo chính lật đổ chính quyền theo kiểu dùng "bạo lực đường phố", đặc biệt nguy hiểm khi quần chúng bị kích động bởi những trung tâm quyền lực từ bên ngoài luôn rắp tâm "đục nước béo cò".
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa
đế quốc cùng các thế lực phản động quốc tế sẽ dùng mọi thủ đoạn, kể cả
màn kịch "cách mạng nhung" để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, đã có những dấu hiệu cho thấy
chúng ta cần hết sức cảnh giác nhằm chống lại âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm
này của các thế lực thù địch, đặc biệt là giải quyết những mặt trái
chắc chắn sẽ nảy sinh trong quá trình Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế
giới. "Diễn biến hoà bình" dù là một kế hoạch rất công phu của các thế
lực thù địch nhưng cũng sẽ không có đất diễn nếu trong nội bộ đất nước
ta không xuất hiện những điểm tựa thuận lợi cho chúng. Nói cách khác,
"diễn biến hoà bình" chỉ làm công việc nhấn nút kết thúc khi quá trình "tự diễn biến" đã chuẩn bị tiền đề đầy đủ.
Để phòng, chống "diễn biến hoà bình" một cách có hiệu quả, nhất là phá
vỡ các mầm mống của "tự diễn biến", thì trước hết phải có sự nhận diện
thoả đáng về phương diện lý luận. Rõ ràng, không phải bất cứ sự yếu kém
nào trong đời sống xã hội, thậm chí trong hệ thống chính trị và chế độ
nhà nước, cũng đều thuộc về phạm trù "diễn biến hoà bình". Đối với nước
ta, nói đến "diễn biến hoà bình" là nói đến âm mưu, thủ đoạn tổng thể
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hòng làm chuyển hoá chế độ
chính trị của ta từ bên trong mà không cần phải sử dụng đến bạo lực vũ
trang để can thiệp. Về thực chất, nếu chiến tranh là kế tục của chính
trị bằng thủ đoạn bạo lực vũ trang mang tính nhà nước thì "diễn biến hoà
bình" cũng chính là kế tục của chính trị, nhưng bằng thủ đoạn phi bạo
lực vũ trang. Chưa thể coi cái tính trạng thoái hoá, biến chất song chưa
đụng đến chế độ chính trị và nhà nước là "diễn biến hoà bình". Tuy
nhiên, chính sự thoái hoá, biến chất của đội ngũ lại là tiền đề, mầm
mống của sự biến chất chế độ chính trị, và nó thuộc về phạm trù "tự diễn
biến". Thành thử, "tự diễn biến" luôn chứa đựng nội hàm rộng hơn, và
khi được đẩy lên đến mức phổ biến thì chắc chắn sẽ trực tiếp dẫn thẳng
đến làm biến chất chế độ chính trị. Nhìn tổng thể thì có thể thấy âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòngchuyển hoá chế độ ta bằng "diễn biến hoà bình" là hết sức nguy hiểm, trong đó nguy hiểm nhất là khai thác những mầm mống và khả năng "tự diễn biến" để chuyển hoá ta cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống...
Lợi dụng sự kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu
sụp đổ, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Hướng triển khai của chúng trong
thời gian qua là đẩy mạnh hậu thuẫn cho các đối tượng chống đối ở trong
và ngoài nước, trong đó có một số đối tượng ở địa bàn Hà Nội liên kết
tập hợp lực lượng, ý đồ kích động biểu tình, bạo loạn gây mất ổn định để
lợi dụng can thiệp. Để khuyến khích cho các đối tượng cực đoan liên kết
phối hợp hoạt động chống đối, thời gian qua các thế lực thù địch liên
tiếp đưa ra các dự luật để tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy Việt Nam nới lỏng
chính sách mở rộng "dân chủ", "nhân quyền" và "tự do báo chí". Từ 1998
đến nay, Mỹ đã đưa ra 23 luật và nghị quyết về Việt Nam; riêng năm 2005
Mỹ đưa ra 4 dự luật, nghị quyết, trong đó có Dự luật nhân quyền Việt Nam
2005, tiếp tục xếp Việt Nam trong "Danh sách những nước cần quan tâm
đặc biệt về tôn giáo”.
Được sự hậu thuẫn của Mỹ và các thế lực thù địch, bọn phản động lưu
vong người Việt đẩy mạnh móc nối, liên kết với số chống đối ở trong nước
nhằm tạo dựng cơ sở đứng chân nội địa, nhất là cơ sở ở địa bàn Hà Nội
để phối hợp trong ngoài phá hoại. Hoạt động của bọn phản động lưu vong
tác động vào địa bàn Hà Nội tập trung là gây áp lực đòi Việt Nam cải
thiện vấn đề nhân quyền; đưa tin xuyên tạc, bóp méo sự thật, phủ nhận
những thành quả cách mạng Việt Nam; yêu cầu Mỹ trừng phạt Việt Nam, đòi
gắn tiến trình hội nhập với vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền.
Chúng đã mở các chiến dịch tuyên truyền kích động, đồng thời đưa ra "lộ
trình" thực hiện dân chủ ở Việt Nam, và có ý đồ tổ chức biểu tình ở Hà
Nội nhằm gây áp lực đòi bầu cử Quốc hội "tự do" có sự giám sát quốc tế.
Chúng cử người về nước xây dựng cơ sở móc nối số chống đối và tầng lớp
trẻ trong nước, tìm cách phát triển lực lượng; tán phát tài liệu phản
động qua mạng bưu chính viễn thông vào địa bàn Thủ đô. Mỗi năm Hà Nội
đều phát hiện và ngăn chặn được hàng trăm tài liệu có nội dung phản
động, trong đó chủ yếu là tài liệu được tán phát từ Mỹ, Úc, Pháp, Đức...
xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, kêu gọi "đa
nguyên", "tự do tôn giáo"; xuyên tạc, lồng ghép những bài viết của các
đồng chí lãnh đạo cách mạng góp ý cho Đảng, Chính phủ để kích động các
đối tượng trong nước. Chúng đã tuyên truyền, móc nối được cơ sở ở nội
địa và tại địa bàn Hà Nội, đồng thời lôi kéo số kẻ cơ hội chính trị
trong nội bộ ta để tạo dựng "ngọn cờ", tập hợp lực lượng chính trị đối
lập. Có nhóm đã tìm cách cướp sóng Đài tiếng nói Việt Nam để gây biến
động về chính trị.
Một trong những thủ đoạn nguy hiểm của địch làlợi dụng tình trạng
tham nhũng, tiêu cực tồn tại ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều vụ gây bức
xúc trở thành khiếu kiện đông người để gây rối an ninh trật tự, nhất
là vào thời điểm diễn ra các kỳ họp của Quốc hội. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, vấn đề tham nhũng, tiêu cực đã trở thành nguy cơ
đe doạ sự tồn vong của chế độ. Tình trạng tham nhũng, buôn lậu ngày
càng diễn biến phức tạp đe doạ nhiều ngành sản xuất kinh doanh nội địa,
gây thất thu ngân sách, ảnh hưởng xấu đến bình ổn vật giá, đời sống nhân
dân và tác động nhiều mặt đến nội bộ ta. Nhiều vụ tham nhũng, buôn lậu
gây thất thoát nghiêm trọng tài sản Nhà nước hàng triệu đôla Mỹ như
trong lĩnh vực dầu khí, ngân hàng... Quy mô của các vụ tham nhũng ngày
càng lớn, có tổ chức, phạm vi rộng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, khai
thác triệt để cơ chế thị trường, luật pháp thông thoáng, chính sách đa
sở hữu. Sai phạm của cán bộ, đảng viên có chức quyền tiếp tục diễn ra ở
nhiều cấp, nhiều ngành, lợi dụng chức vụ và những sơ hở trong quản lý
kinh tế, nhất là chủ trương cổ phần hoá để trục lợi…
Tình trạng đó đã tác động xấu, tạo xung đột xã hội, gây khiếu nại tố
cáo ngày càng phức tạp. Tình trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương
với thái độ gay gắt, phức tạp tại trụ sở tiếp dân Trung ương Đảng và
phòng tiếp dân của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội ngày một tăng. Hàng
năm tại đây tiếp nhận khoảng 6.000 đơn của hàng chục ngàn lượt người
khiếu nại, tố cáo. Nhiều đoàn khiếu kiện đeo bám dài ngày ở Hà Nội. Tình
trạng các đoàn mang theo cờ, khẩu hiệu gây áp lực với Trung ương rất
gay gắt. Gần đây, các thế lực thù địch chú ý lợi dụng tình trạng này để
chống phá ta. Số đối tượng cầm đầu, quá khích tìm cách kích động, tụ tập
đông người gây rối, chống người thi hành công vụ, bắt giữ người trái
pháp luật, mỗi năm có hàng chục vụ, trong số này có một số trường hợp do
bức xúc, có trường hợp viết đơn xin xuống đường biểu tình, một số
trường hợp doạ tự thiêu.
Một trong những âm mưu, thủ đoạn "ưa thích" của địch làlợi dụng và
thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố tiêu cực xuất hiện trong một số
cán bộ do động cơ cá nhân dẫn tới bất mãn, thoái hoá biến chất trở thành
cơ hội chính trị phản động. Số cán bộ này vốn có khuynh hướng tư
tưởng xã hội dân chủ, từng đưa ra những quan điểm đối lập với chủ nghĩa
xã hội, với Đảng, đi ngược lại với lợi ích dân tộc, công khai chống Đảng
và chống chế độ xã hội chủ nghĩa, ủng hộ xu hướng tư tưởng dân chủ tư
sản. Họ tích cực móc nối với bên ngoài, tìm cách tập hợp lực lượng hình
thành tổ chức chính trị đối lập ở trong nước như vận động phục hồi Đảng
xã hội, Đảng dân chủ, kêu gọi tổ chức hội nghị "Tiểu Diên hồng", đấu
tranh đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị,
đòi đa nguyên đa đảng, đòi xoá bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992. Tại địa bàn Hà
Nội, ta đã phát hiện số cán bộ này tuy chưa đến 10 người, nhưng về hoạt
động chống phá thì rất công khai, liên kết với bọn phản động lưu vong và
các thế lực thù địch thách thức chính quyền, một số đã bộc lộ mục tiêu
lật đổ chế độ. Họ cho rằng đã được bên ngoài hậu thuẫn về kinh phí, ủng
hộ về tinh thần nên đã liên tiếp dấy lên các hoạt động chống phá, tập
trung là đòi "tự do" ngôn luận, đòi tự do tôn giáo và tiến tới đòi "tự
do" bầu cử có sự giám sát quốc tế để lật đổ chế độ ta.
Việclợi dụng sự phân hoá các giai tầng xã hội, giới trẻ, học sinh, sinh viên để tạo sự mơ hồ, lệch lạc trong nhận thức tư tưởng cũng
được các thế lực thù địch đẩy mạnh. Trên thực tế, có nhiều thanh niên,
sinh viên không quan tâm đến chính trị, không quan tâm đến mục tiêu lý
tưởng, chỉ nghĩ tới học gì để dễ kiếm việc làm, kiếm nhiều tiền. Theo
thông tin khảo sát xã hội học gần đây cho biết, có tới 92% số thanh niên
được hỏi ý kiến chọn địa vị xã hội, 87% chọn giàu có, 77% số thanh niên
chọn nghề có thu nhập cao... làm định hướng cuộc sống. Nhiều học sinh,
sinh viên không muốn vào Đoàn thanh niên, vào Đảng. Do không được giáo
dục, rèn luyện về ý thức chính trị, lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nên dẫn đến mơ hồ về chính trị, không ít sinh viên cho rằng cần
có đảng đối lập... Thậm chí, một số học sinh, sinh viên tham gia các
nhóm, hội đoàn tôn giáo. Trong sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội
cũng đã nảy sinh hiện tượng tụ tập sinh viên tổ chức mít -tinh, biểu
tình quá khích, không những gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa
bàn mà còn có liên quan đến các vấn đề nhạy cảm về chính trị - xã hội.
Cùng với các cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên, các cuộc biểu tình, đình công trong các xí nghiệp, nhà máy đòi
tăng lương, đòi giải quyết những chính sách đối với người lao động phát
triển ngày càng nhiều. Mặt tốt của các cuộc biểu tình này là đòi công
bằng, đòi thực hiện tốt các chính sách đối với người lao động. Song, mặt
trái của nó cũng không ít, và khi bị kẻ thù lợi dụng rất có thể sẽ
chuyển hoá thành các cuộc bạo loạn chính trị. Đặc biệt, các thế lực thù
địch thường lợi dụng những mâu thuẫn xã hộiđểkích động khiếu kiện,
làm bùng nổ những "điểm nóng” trong các vùng dân cư, gây biến động, phá
vỡ nền tảng chính trị -xã hội của ta.Những năm gần đây, một vấn đề
nổi cộm lên là “an ninh nông thôn và các điểm nóng”. Mỹ và các thế lực
thù địch đánh giá “nông thôn Việt Nam là một địa bàn trọng yếu”, từ đó
xác định “phải triển khai một hướng chiến lược nhằm vào nông thôn, tập
hợp lực lượng nông dân, mất nông dân thì Đảng Cộng sản Việt Nam mất chỗ
dựa chủ yếu”.
Sự yếu kém, quan liêu, xa dân, có sai phạm của tổ chức Đảng và chính
quyền cơ sở ở một số nơi, nhất là trong giải quyết những mâu thuẫn xã
hội nảy sinh không kịp thời, để kéo dài… đã tạo cơ hội để các thế lực
thù địch tìm cách nhân rộng "điểm nóng". Được sự hỗ trợ, chỉ đạo của Mỹ,
các thế lực thù địch trong nước ráo riết đẩy mạnh hoạt động móc nối với
bọn phản động trong các tôn giáo, tuyên truyền phổ biến “kinh nghiệm
Thái Bình”, nhằm nhân rộng “phong trào Thái Bình” ra nhiều địa phương
khác; tạo ra nhiều “điểm nóng”, hình thành một “mặt trận” ở nông thôn,
làm vô hiệu hoá tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở. Tiếp tục, từ nông
thôn chúng mở rộng địa bàn lan sang thành thị, mở rộng sang các lĩnh vực
khác, thúc đẩy gây biến động chính trị, kinh tế - xã hội; tăng cường áp
lực đòi chuyển hoá đường lối, chế độ xã hội của ta, tạo cớ cho sự can
thiệp bằng sức mạnh quân sự từ bên ngoài.
"Tự diễn biến" về chính trị là quá trình mà chế độ chính trị
tự “đổi màu” do Đảng bị suy yếu từ tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng và tiêu cực…, đặc biệt là tổ
chức bị tự phân hoá, Đảng mất vai trò lãnh đạo chính quyền nhà nước, dẫn
đến quần chúng mất lòng tin, ngả theo "phe đối lập" với chiêu bài "xã
hội dân chủ", đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chủ nghĩa xã hội sẽ
biến dạng, chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản. Kể cả trong trường hợp
Đảng và Nhà nước ta kiên định chủ nghĩa xã hội, nhưng một bộ phận cán
bộ, đảng viên bất mãn, thì các thế lực thù địch sẽ hậu thuẫn, giúp đỡ để
họ tranh thủ quần chúng, hình thành "phe đối lập", tạo dựng "ngọn cờ"
thông qua đấu tranh nghị trường, gây sức ép từng bước buộc ta nhượng
bộ, và cuối cùng dẫn đến mất chế độ. Các hình thức chuyển hoá này là
trực tiếp, nhưng khó xảy ra nếu đội ngũ cán bộ chủ trì của Đảng và Nhà
nước vững mạnh, đoàn kết, luôn cảnh giác đấu tranh với các thủ đoạn chia
rẽ của kẻ thù. Điều đó càng cho thấy, chống "diễn biến hoà bình" phụ
thuộc rất lớn vào chống "tự diễn biến".
"Tự diễn biến" về kinh tế là cơ sở hạ tầng kinh tế do những
trì trệ, yếu kém hoặc sự dễ dãi chấp nhận "giúp đỡ" một cách vô nguyên
tắc mà chuyển hoá thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó chế
độ chính trị tự “đổi màu”. Sự chuyển hoá này sẽ diễn ra nếu mô hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm phát huy tác dụng, nền
kinh tế gặp khó khăn lớn, thành phần kinh tế nhà nước không giữ được vai
trò chủ đạo, sự quản lý kinh tế của Nhà nước không hiệu quả. Các thế
lực thù địch sẽ thúc đẩy kinh tế thị trường tự do phát triển theo hướng
tư bản chủ nghĩa, đến một giai đoạn nào đó, khi sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa giữ vai trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế, về thực chất đã
chuyển hoá thành kinh tế tư bản chủ nghĩa, thì kiến trúc thượng tầng xã
hội chủ nghĩa chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa và thực sự đã “đổi màu”.
Tính chất "tự diễn biến" nổi rõ ở chỗ ta mắc những sai lầm, thiếu sót
trong quản lý kinh tế - xã hội, hoặc kinh tế có tăng trưởng nhưng lệ
thuộc vào kinh tế tư bản; công bằng xã hội bị chà đạp, phân cực xã hội
gay gắt, quần chúng nhân dân bất mãn, chống đối. Quá trình "tự diễn
biến" này càng nguy hiểm trong điều kiện các thế lực thù địch có tiềm
lực kinh tế mạnh hơn ta nhiều lần.
"Tự diễn biến" về xã hội là quá trình mà những tác động của
mặt trái kinh tế thị trường làm cho sự phân hoá giàu nghèo gia tăng,
giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, nhất là nhân dân lao động nói
chung, thiếu sự gắn bó mật thiết về phương diện ý thức và tổ chức cộng
đồng. Điều đó sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội mới rất phức tạp,
nếu Đảng và Nhà nước chậm có những giải pháp thiết thực, đồng bộ thì rất
có thể làm chuyển hoá những mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn chính trị,
xảy ra những biến động bất ổn về chính trị ngay trong các quan hệ xã
hội. Các cuộc khiếu kiện đông người đòi giải quyết sách xã hội đơn thuần
là bình thường, song khi bị kẻ thù lợi dụng rất có thể sẽ chuyển hoá
thành các cuộc bạo loạn chính trị khi các thế lực thù địch lợi dụng làm
bùng nổ "điểm nóng” gây biến động, phá vỡ nền tảng chính trị của chế độ
ta.
"Tự diễn biến" về văn hoá - giáo dục - đào tạo thể
hiện ở sự du nhập quan điểm, tư tưởng, văn hoá, lối sống, giá trị phương
Tây. Một mặt, các thế thế lực thù địch thông qua các chương trình đưa
cán bộ ta ra nước ngoài học tập, nghiên cứu bằng nhiều nguồn vốn khác
nhau, nhất là nguồn tài trợ nước ngoài, hòng tạo ra một “thế hệ cán bộ
thân phương Tây”, sau này nắm dần các cương vị trọng yếu trong nền kinh
tế - xã hội và thậm chí trong hệ thống chính trị. Mặt khác, thông qua
việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam, chúng ra sức truyền bá các quan điểm
xa lạ hòng gạt bỏ hệ tư tưởng cách mạng trong lập trường của
giai cấp công nhân ta. Về lĩnh vực văn hoá cũng vậy, sự đề cao quá đáng
chuẩn mực giá trị tư sản, hạ thấp giá trị của chủ nghĩa xã hội, đổ lỗi
hoàn toàn cho chế độ chính trị về những tiêu cực trong đời sống văn hoá
xã hội, hiện tượng xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, gieo rắc sự hoài
nghi, hoang mang trong nhân dân, thậm chí lợi dụng các phương tiện
truyền thông để truyền bá đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... cũng
chính là "tự diễn biến".
Để đẩy mạnh sự nghiệp đấu tranh phòng, chống "diễn biến hoà bình", rõ
ràng trước hết cần có cơ thể xã hội lành mạnh, trong đó đặc biệt quan
trọng là xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên vững mạnh về mọi mặt,
trước hết là vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước hết, cần tập trungxây dựng các cơ sở chính trị vững mạnh để đủ sức phòng, chống "diễn biến hoà bình" của địch, nhất là chống lại nguy cơ tự diễn biến. Thứ hai, cần
có các giải pháp hiệu quả để tăng cường công tác giáo dục cho nhân dân,
trong đó giáo dục chính trị chiếm vị trí cực kỳ quan trọng. Để chống
lại thủ đoạn tuyên truyền kích động "diễn biến hoà bình" của địch, dứt
khoát phải có những biện pháp mạnh trong quản lý và phát huy hiệu quả hệ
thống truyền thông. Thứ ba, cần phát huy tính chủ động, sáng
tạo của bản thân các tầng lớp nhân dân trong phòng, chống "tự diễn
biến". Để thực hiện phòng, chống "diễn biến hoà bình” cũng như phòng,
chống "tự diễn biến", cần thấy rằng phương châm quan trọng nhất là phòng
hơn chống, giải quyết các bức xúc, tiêu cực xã hội từ nội bộ, không để
dẫn đến “điểm nóng” lan rộng trong xã hội mà kẻ thù có thể lợi dụng gây
tình hình phức tạp. Các tổ chức xã hội cần góp phần tích cực kịp thời
phát hiện và dập tắt những luận điệu chiến tranh tâm lý, tuyên truyền
xuyên tạc của địch. Đặc biệt, tổ chức đảng cần nắm chắc tình hình đời
sống, tâm tư nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân, phát hiện những
thiếu sót trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để
giải quyết kịp thời.