Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

"Diễn biến hoà bình" và "tự diễn biến" trong bối cảnh hiện nay

Cuối thế kỷ XX, nhân loại phải giật mình cảnh tỉnh trước ba nguy cơ lớn: một là chiến tranh công nghệ cao do chủ nghĩa đế quốc tiến hành, với bộ mặt "chiến tranh sạch" nhưng đằng sau là hiểm hoạ hơn tất cả các hiểm hoạ trước; hai là "diễn biến hoà bình" cũng của chủ nghĩa đế quốc, cái công cụ đã làm tan rã những cường quốc từng là thành trì của hoà bình và cách mạng thế giới, điều mà mọi cuộc chiến tàn khốc trước đó của chủ nghĩa phát-xít không thể làm nổi; ba là "cách mạng sắc màu" - sự cộng sinh giữa "diễn biến hoà bình" và bạo loạn chính trị - mà tác giả một lần nữa không ai khác chính là chủ nghĩa đế quốc, một công cụ khác giải quyết nốt phần còn lại của chiến tranh công nghệ cao và "diễn biến hoà bình".

Có thể thấy rõ ràng là, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ không phải do chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc mà chính do sự trì trệ về kinh tế - xã hội cùng sai lầm của Đảng và Nhà nước, và đó chính là thất bại trước "diễn biến hoà bình". Tiếp sau sự sụp đổ của Liên Xô là sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, rồi các cuộc "cách mạng sắc màu" - một dị bản của "diễn biến hoà bình" có kết hợp với yếu tố bạo loạn lật đổ - cũng được chủ nghĩa đế quốc thực hiện thành công ở một loạt nước. Nhìn nhậnkhái quát về cuộc bạo loạn lật đổ ở một số nước, có thể thấy mặc dù có những điểm không giống nhau, nhưng "cách mạng đường phố", "cách mạng nhung", "cách mạng da cam"... chỉ là những tên gọi khác nhau để chỉ một sản phẩm "sáng tạo" của chủ nghĩa đế quốc: công nghệ giành chính quyền thông qua biểu tình. Thực chất, đây là những cuộc đảo chính lật đổ chính quyền theo kiểu dùng "bạo lực đường phố", đặc biệt nguy hiểm khi quần chúng bị kích động bởi những trung tâm quyền lực từ bên ngoài luôn rắp tâm "đục nước béo cò".
 
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực phản động quốc tế sẽ dùng mọi thủ đoạn, kể cả màn kịch "cách mạng nhung" để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, đã có những dấu hiệu cho thấy chúng ta cần hết sức cảnh giác nhằm chống lại âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm này của các thế lực thù địch, đặc biệt là giải quyết những mặt trái chắc chắn sẽ nảy sinh trong quá trình Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới. "Diễn biến hoà bình" dù là một kế hoạch rất công phu của các thế lực thù địch nhưng cũng sẽ không có đất diễn nếu trong nội bộ đất nước ta không xuất hiện những điểm tựa thuận lợi cho chúng. Nói cách khác, "diễn biến hoà bình" chỉ làm công việc nhấn nút kết thúc khi quá trình "tự diễn biến" đã chuẩn bị tiền đề đầy đủ.
 
Để phòng, chống "diễn biến hoà bình" một cách có hiệu quả, nhất là phá vỡ các mầm mống của "tự diễn biến", thì trước hết phải có sự nhận diện thoả đáng về phương diện lý luận. Rõ ràng, không phải bất cứ sự yếu kém nào trong đời sống xã hội, thậm chí trong hệ thống chính trị và chế độ nhà nước, cũng đều thuộc về phạm trù "diễn biến hoà bình". Đối với nước ta, nói đến "diễn biến hoà bình" là nói đến âm mưu, thủ đoạn tổng thể của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hòng làm chuyển hoá chế độ chính trị của ta từ bên trong mà không cần phải sử dụng đến bạo lực vũ trang để can thiệp. Về thực chất, nếu chiến tranh là kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực vũ trang mang tính nhà nước thì "diễn biến hoà bình" cũng chính là kế tục của chính trị, nhưng bằng thủ đoạn phi bạo lực vũ trang. Chưa thể coi cái tính trạng thoái hoá, biến chất song chưa đụng đến chế độ chính trị và nhà nước là "diễn biến hoà bình". Tuy nhiên, chính sự thoái hoá, biến chất của đội ngũ lại là tiền đề, mầm mống của sự biến chất chế độ chính trị, và nó thuộc về phạm trù "tự diễn biến". Thành thử, "tự diễn biến" luôn chứa đựng nội hàm rộng hơn, và khi được đẩy lên đến mức phổ biến thì chắc chắn sẽ trực tiếp dẫn thẳng đến làm biến chất chế độ chính trị. Nhìn tổng thể thì có thể thấy âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòngchuyển hoá chế độ ta bằng "diễn biến hoà bình" là hết sức nguy hiểm, trong đó nguy hiểm nhất là khai thác những mầm mống và khả năng "tự diễn biến" để chuyển hoá ta cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống...
 
Lợi dụng sự kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Hướng triển khai của chúng trong thời gian qua là đẩy mạnh hậu thuẫn cho các đối tượng chống đối ở trong và ngoài nước, trong đó có một số đối tượng ở địa bàn Hà Nội liên kết tập hợp lực lượng, ý đồ kích động biểu tình, bạo loạn gây mất ổn định để lợi dụng can thiệp. Để khuyến khích cho các đối tượng cực đoan liên kết phối hợp hoạt động chống đối, thời gian qua các thế lực thù địch liên tiếp đưa ra các dự luật để tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy Việt Nam nới lỏng chính sách mở rộng "dân chủ", "nhân quyền" và "tự do báo chí". Từ 1998 đến nay, Mỹ đã đưa ra 23 luật và nghị quyết về Việt Nam; riêng năm 2005 Mỹ đưa ra 4 dự luật, nghị quyết, trong đó có Dự luật nhân quyền Việt Nam 2005, tiếp tục xếp Việt Nam trong "Danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo”.
 
Được sự hậu thuẫn của Mỹ và các thế lực thù địch, bọn phản động lưu vong người Việt đẩy mạnh móc nối, liên kết với số chống đối ở trong nước nhằm tạo dựng cơ sở đứng chân nội địa, nhất là cơ sở ở địa bàn Hà Nội để phối hợp trong ngoài phá hoại. Hoạt động của bọn phản động lưu vong tác động vào địa bàn Hà Nội tập trung là gây áp lực đòi Việt Nam cải thiện vấn đề nhân quyền; đưa tin xuyên tạc, bóp méo sự thật, phủ nhận những thành quả cách mạng Việt Nam; yêu cầu Mỹ trừng phạt Việt Nam, đòi gắn tiến trình hội nhập với vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Chúng đã mở các chiến dịch tuyên truyền kích động, đồng thời đưa ra "lộ trình" thực hiện dân chủ ở Việt Nam, và có ý đồ tổ chức biểu tình ở Hà Nội nhằm gây áp lực đòi bầu cử Quốc hội "tự do" có sự giám sát quốc tế. Chúng cử người về nước xây dựng cơ sở móc nối số chống đối và tầng lớp trẻ trong nước, tìm cách phát triển lực lượng; tán phát tài liệu phản động qua mạng bưu chính viễn thông vào địa bàn Thủ đô. Mỗi năm Hà Nội đều phát hiện và ngăn chặn được hàng trăm tài liệu có nội dung phản động, trong đó chủ yếu là tài liệu được tán phát từ Mỹ, Úc, Pháp, Đức... xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, kêu gọi "đa nguyên", "tự do tôn giáo"; xuyên tạc, lồng ghép những bài viết của các đồng chí lãnh đạo cách mạng góp ý cho Đảng, Chính phủ để kích động các đối tượng trong nước. Chúng đã tuyên truyền, móc nối được cơ sở ở nội địa và tại địa bàn Hà Nội, đồng thời lôi kéo số kẻ cơ hội chính trị trong nội bộ ta để tạo dựng "ngọn cờ", tập hợp lực lượng chính trị đối lập. Có nhóm đã tìm cách cướp sóng Đài tiếng nói Việt Nam để gây biến động về chính trị.
 
Một trong những thủ đoạn nguy hiểm của địch làlợi dụng tình trạng tham nhũng, tiêu cực tồn tại ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều vụ gây bức xúc trở thành khiếu kiện đông người để gây rối an ninh trật tự, nhất là vào thời điểm diễn ra các kỳ họp của Quốc hội. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, vấn đề tham nhũng, tiêu cực đã trở thành nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ. Tình trạng tham nhũng, buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp đe doạ nhiều ngành sản xuất kinh doanh nội địa, gây thất thu ngân sách, ảnh hưởng xấu đến bình ổn vật giá, đời sống nhân dân và tác động nhiều mặt đến nội bộ ta. Nhiều vụ tham nhũng, buôn lậu gây thất thoát nghiêm trọng tài sản Nhà nước hàng triệu đôla Mỹ như trong lĩnh vực dầu khí, ngân hàng... Quy mô của các vụ tham nhũng ngày càng lớn, có tổ chức, phạm vi rộng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, khai thác triệt để cơ chế thị trường, luật pháp thông thoáng, chính sách đa sở hữu. Sai phạm của cán bộ, đảng viên có chức quyền tiếp tục diễn ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, lợi dụng chức vụ và những sơ hở trong quản lý kinh tế, nhất là chủ trương cổ phần hoá để trục lợi…
 
Tình trạng đó đã tác động xấu, tạo xung đột xã hội, gây khiếu nại tố cáo ngày càng phức tạp. Tình trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương với thái độ gay gắt, phức tạp tại trụ sở tiếp dân Trung ương Đảng và phòng tiếp dân của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội ngày một tăng. Hàng năm tại đây tiếp nhận khoảng 6.000 đơn của hàng chục ngàn lượt người khiếu nại, tố cáo. Nhiều đoàn khiếu kiện đeo bám dài ngày ở Hà Nội. Tình trạng các đoàn mang theo cờ, khẩu hiệu gây áp lực với Trung ương rất gay gắt. Gần đây, các thế lực thù địch chú ý lợi dụng tình trạng này để chống phá ta. Số đối tượng cầm đầu, quá khích tìm cách kích động, tụ tập đông người gây rối, chống người thi hành công vụ, bắt giữ người trái pháp luật, mỗi năm có hàng chục vụ, trong số này có một số trường hợp do bức xúc, có trường hợp viết đơn xin xuống đường biểu tình, một số trường hợp doạ tự thiêu.
 
Một trong những âm mưu, thủ đoạn "ưa thích" của địch làlợi dụng và thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố tiêu cực xuất hiện trong một số cán bộ do động cơ cá nhân dẫn tới bất mãn, thoái hoá biến chất trở thành cơ hội chính trị phản động. Số cán bộ này vốn có khuynh hướng tư tưởng xã hội dân chủ, từng đưa ra những quan điểm đối lập với chủ nghĩa xã hội, với Đảng, đi ngược lại với lợi ích dân tộc, công khai chống Đảng và chống chế độ xã hội chủ nghĩa, ủng hộ xu hướng tư tưởng dân chủ tư sản. Họ tích cực móc nối với bên ngoài, tìm cách tập hợp lực lượng hình thành tổ chức chính trị đối lập ở trong nước như vận động phục hồi Đảng xã hội, Đảng dân chủ, kêu gọi tổ chức hội nghị "Tiểu Diên hồng", đấu tranh đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên đa đảng, đòi xoá bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992. Tại địa bàn Hà Nội, ta đã phát hiện số cán bộ này tuy chưa đến 10 người, nhưng về hoạt động chống phá thì rất công khai, liên kết với bọn phản động lưu vong và các thế lực thù địch thách thức chính quyền, một số đã bộc lộ mục tiêu lật đổ chế độ. Họ cho rằng đã được bên ngoài hậu thuẫn về kinh phí, ủng hộ về tinh thần nên đã liên tiếp dấy lên các hoạt động chống phá, tập trung là đòi "tự do" ngôn luận, đòi tự do tôn giáo và tiến tới đòi "tự do" bầu cử có sự giám sát quốc tế để lật đổ chế độ ta.
 
Việclợi dụng sự phân hoá các giai tầng xã hội, giới trẻ, học sinh, sinh viên để tạo sự mơ hồ, lệch lạc trong nhận thức tư tưởng cũng được các thế lực thù địch đẩy mạnh. Trên thực tế, có nhiều thanh niên, sinh viên không quan tâm đến chính trị, không quan tâm đến mục tiêu lý tưởng, chỉ nghĩ tới học gì để dễ kiếm việc làm, kiếm nhiều tiền. Theo thông tin khảo sát xã hội học gần đây cho biết, có tới 92% số thanh niên được hỏi ý kiến chọn địa vị xã hội, 87% chọn giàu có, 77% số thanh niên chọn nghề có thu nhập cao... làm định hướng cuộc sống. Nhiều học sinh, sinh viên không muốn vào Đoàn thanh niên, vào Đảng. Do không được giáo dục, rèn luyện về ý thức chính trị, lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên dẫn đến mơ hồ về chính trị, không ít sinh viên cho rằng cần có đảng đối lập... Thậm chí, một số học sinh, sinh viên tham gia các nhóm, hội đoàn tôn giáo. Trong sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội cũng đã nảy sinh hiện tượng tụ tập sinh viên tổ chức mít -tinh, biểu tình quá khích, không những gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn mà còn có liên quan đến các vấn đề nhạy cảm về chính trị - xã hội.
 
Cùng với các cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên, các cuộc biểu tình, đình công trong các xí nghiệp, nhà máy đòi tăng lương, đòi giải quyết những chính sách đối với người lao động phát triển ngày càng nhiều. Mặt tốt của các cuộc biểu tình này là đòi công bằng, đòi thực hiện tốt các chính sách đối với người lao động. Song, mặt trái của nó cũng không ít, và khi bị kẻ thù lợi dụng rất có thể sẽ chuyển hoá thành các cuộc bạo loạn chính trị. Đặc biệt, các thế lực thù địch thường lợi dụng những mâu thuẫn xã hộiđểkích động khiếu kiện, làm bùng nổ những "điểm nóng” trong các vùng dân cư, gây biến động, phá vỡ nền tảng chính trị -xã hội của ta.Những năm gần đây, một vấn đề nổi cộm lên là “an ninh nông thôn và các điểm nóng”. Mỹ và các thế lực thù địch đánh giá “nông thôn Việt Nam là một địa bàn trọng yếu”, từ đó xác định “phải triển khai một hướng chiến lược nhằm vào nông thôn, tập hợp lực lượng nông dân, mất nông dân thì Đảng Cộng sản Việt Nam mất chỗ dựa chủ yếu”.
 
Sự yếu kém, quan liêu, xa dân, có sai phạm của tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở ở một số nơi, nhất là trong giải quyết những mâu thuẫn xã hội nảy sinh không kịp thời, để kéo dài… đã tạo cơ hội để các thế lực thù địch tìm cách nhân rộng "điểm nóng". Được sự hỗ trợ, chỉ đạo của Mỹ, các thế lực thù địch trong nước ráo riết đẩy mạnh hoạt động móc nối với bọn phản động trong các tôn giáo, tuyên truyền phổ biến “kinh nghiệm Thái Bình”, nhằm nhân rộng “phong trào Thái Bình” ra nhiều địa phương khác; tạo ra nhiều “điểm nóng”, hình thành một “mặt trận” ở nông thôn, làm vô hiệu hoá tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở. Tiếp tục, từ nông thôn chúng mở rộng địa bàn lan sang thành thị, mở rộng sang các lĩnh vực khác, thúc đẩy gây biến động chính trị, kinh tế - xã hội; tăng cường áp lực đòi chuyển hoá đường lối, chế độ xã hội của ta, tạo cớ cho sự can thiệp bằng sức mạnh quân sự từ bên ngoài.
 
"Tự diễn biến" về chính trị là quá trình mà chế độ chính trị tự “đổi màu” do Đảng bị suy yếu từ tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng và tiêu cực…, đặc biệt là tổ chức bị tự phân hoá, Đảng mất vai trò lãnh đạo chính quyền nhà nước, dẫn đến quần chúng mất lòng tin, ngả theo "phe đối lập" với chiêu bài "xã hội dân chủ", đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chủ nghĩa xã hội sẽ biến dạng, chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản. Kể cả trong trường hợp Đảng và Nhà nước ta kiên định chủ nghĩa xã hội, nhưng một bộ phận cán bộ, đảng viên bất mãn, thì các thế lực thù địch sẽ hậu thuẫn, giúp đỡ để họ tranh thủ quần chúng, hình thành "phe đối lập", tạo dựng "ngọn cờ" thông qua đấu tranh nghị tr­ường, gây sức ép từng bước buộc ta nhượng bộ, và cuối cùng dẫn đến mất chế độ. Các hình thức chuyển hoá này là trực tiếp, nhưng khó xảy ra nếu đội ngũ cán bộ chủ trì của Đảng và Nhà nước vững mạnh, đoàn kết, luôn cảnh giác đấu tranh với các thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù. Điều đó càng cho thấy, chống "diễn biến hoà bình" phụ thuộc rất lớn vào chống "tự diễn biến".
 
"Tự diễn biến" về kinh tế là cơ sở hạ tầng kinh tế do những trì trệ, yếu kém hoặc sự dễ dãi chấp nhận "giúp đỡ" một cách vô nguyên tắc mà chuyển hoá thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó chế độ chính trị tự “đổi màu”. Sự chuyển hoá này sẽ diễn ra nếu mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm phát huy tác dụng, nền kinh tế gặp khó khăn lớn, thành phần kinh tế nhà nước không giữ được vai trò chủ đạo, sự quản lý kinh tế của Nhà nước không hiệu quả. Các thế lực thù địch sẽ thúc đẩy kinh tế thị trường tự do phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, đến một giai đoạn nào đó, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế, về thực chất đã chuyển hoá thành kinh tế tư bản chủ nghĩa, thì kiến trúc thư­ợng tầng xã hội chủ nghĩa chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa và thực sự đã “đổi màu”. Tính chất "tự diễn biến" nổi rõ ở chỗ ta mắc những sai lầm, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, hoặc kinh tế có tăng trưởng nhưng lệ thuộc vào kinh tế tư bản; công bằng xã hội bị chà đạp, phân cực xã hội gay gắt, quần chúng nhân dân bất mãn, chống đối. Quá trình "tự diễn biến" này càng nguy hiểm trong điều kiện các thế lực thù địch có tiềm lực kinh tế mạnh hơn ta nhiều lần.
 
"Tự diễn biến" về xã hội là quá trình mà những tác động của mặt trái kinh tế thị trường làm cho sự phân hoá giàu nghèo gia tăng, giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, nhất là nhân dân lao động nói chung, thiếu sự gắn bó mật thiết về phương diện ý thức và tổ chức cộng đồng. Điều đó sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội mới rất phức tạp, nếu Đảng và Nhà nước chậm có những giải pháp thiết thực, đồng bộ thì rất có thể làm chuyển hoá những mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn chính trị, xảy ra những biến động bất ổn về chính trị ngay trong các quan hệ xã hội. Các cuộc khiếu kiện đông người đòi giải quyết sách xã hội đơn thuần là bình thường, song khi bị kẻ thù lợi dụng rất có thể sẽ chuyển hoá thành các cuộc bạo loạn chính trị khi các thế lực thù địch lợi dụng làm bùng nổ "điểm nóng” gây biến động, phá vỡ nền tảng chính trị của chế độ ta.
 
"Tự diễn biến" về văn hoá - giáo dục - đào tạo thể hiện ở sự du nhập quan điểm, tư tưởng, văn hoá, lối sống, giá trị phương Tây. Một mặt, các thế thế lực thù địch thông qua các chương trình đưa cán bộ ta ra nước ngoài học tập, nghiên cứu bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, nhất là nguồn tài trợ nước ngoài, hòng tạo ra một “thế hệ cán bộ thân phương Tây”, sau này nắm dần các cương vị trọng yếu trong nền kinh tế - xã hội và thậm chí trong hệ thống chính trị. Mặt khác, thông qua việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam, chúng ra sức truyền bá các quan điểm xa lạ hòng gạt bỏ hệ tư tưởng cách mạng trong lập trường của giai cấp công nhân ta. Về lĩnh vực văn hoá cũng vậy, sự đề cao quá đáng chuẩn mực giá trị tư sản, hạ thấp giá trị của chủ nghĩa xã hội, đổ lỗi hoàn toàn cho chế độ chính trị về những tiêu cực trong đời sống văn hoá xã hội, hiện tượng xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, gieo rắc sự hoài nghi, hoang mang trong nhân dân, thậm chí lợi dụng các phương tiện truyền thông để truyền bá đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... cũng chính là "tự diễn biến".
 
Để đẩy mạnh sự nghiệp đấu tranh phòng, chống "diễn biến hoà bình", rõ ràng trước hết cần có cơ thể xã hội lành mạnh, trong đó đặc biệt quan trọng là xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên vững mạnh về mọi mặt, trước hết là vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước hết, cần tập trungxây dựng các cơ sở chính trị vững mạnh để đủ sức phòng, chống "diễn biến hoà bình" của địch, nhất là chống lại nguy cơ tự diễn biến. Thứ hai, cần có các giải pháp hiệu quả để tăng cường công tác giáo dục cho nhân dân, trong đó giáo dục chính trị chiếm vị trí cực kỳ quan trọng. Để chống lại thủ đoạn tuyên truyền kích động "diễn biến hoà bình" của địch, dứt khoát phải có những biện pháp mạnh trong quản lý và phát huy hiệu quả hệ thống truyền thông. Thứ ba, cần phát huy tính chủ động, sáng tạo của bản thân các tầng lớp nhân dân trong phòng, chống "tự diễn biến". Để thực hiện phòng, chống "diễn biến hoà bình” cũng như phòng, chống "tự diễn biến", cần thấy rằng phương châm quan trọng nhất là phòng hơn chống, giải quyết các bức xúc, tiêu cực xã hội từ nội bộ, không để dẫn đến “điểm nóng” lan rộng trong xã hội mà kẻ thù có thể lợi dụng gây tình hình phức tạp. Các tổ chức xã hội cần góp phần tích cực kịp thời phát hiện và dập tắt những luận điệu chiến tranh tâm lý, tuyên truyền xuyên tạc của địch. Đặc biệt, tổ chức đảng cần nắm chắc tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân, phát hiện những thiếu sót trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để giải quyết kịp thời.
Nguồn: Viện Khoa học Xã hội & Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng

Nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình”

1 - Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh và tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Xu thế lớn không thể đảo ngược là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển, song cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên... tiếp tục diễn ra ngày càng phức tạp. Trong điều kiện và đặc điểm đó, nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người, trong đó, nổi lên hàng đầu là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố... Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội đang diễn ra sôi động, tuy còn nhiều khó khăn, song đã có những bước tiến và dấu hiệu mới. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành đổi mới, cải cách, giành được những thành tựu mới, quan trọng, tiếp tục trụ vững và phát triển. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và cánh tả đang có nhiều nỗ lực vượt qua thử thách để dần từng bước khôi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả vẫn gặp nhiều khó khăn gay gắt, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm mọi cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chiến lược "diễn biến hòa bình" được coi là biện pháp hữu hiệu hàng đầu, đã từng góp phần trực tiếp làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu những năm trước đây và đang tìm mọi cách tiếp tục hòng làm lung lay dẫn tới sụp đổ các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong bối cảnh và đặc điểm đó của tình hình quốc tế, chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời đề cao cảnh giác, kiên quyết và tỉnh táo đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Hai yêu cầu trên không tách rời và mâu thuẫn nhau, mà xuyên thấm vào nhau không chỉ trong tư duy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, mà cả trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của chúng ta trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
2 - Ngay từ khi còn thực hiện cuộc Chiến tranh lạnh, đối đầu về quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã sử dụng các biện pháp "diễn biến hòa bình" hỗ trợ cho phương thức vũ trang chống các nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó không phải do chúng ta gán ghép hay suy diễn mà thể hiện rõ trong các âm mưu chiến lược của chủ nghĩa đế quốc từ những năm 50 của thế kỷ XX. Chiến lược "phản ứng linh hoạt" với chính sách "mũi tên và cành ô liu" những năm 60, chiến lược "răn đe thực tế" với chính sách "cây gậy và củ cà rốt" những năm 70 của chủ nghĩa đế quốc, đã được triển khai liên tục, ráo riết chống các nước xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, mất cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xuất hiện khá phổ biến ở các nước Đông Âu và Liên Xô thời kỳ này đã lấn át tư tưởng, ý chí cách mạng, quan điểm đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, từ đó, ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản ngày càng mở rộng trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản, sau những năm điều chỉnh, đã đạt được sự ổn định và có bước phát triển. Trong khi đó, do sai lầm kéo dài về nhiều phương diện, nhiều nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu lâm vào khủng hoảng, và khi thực hiện đường lối cải cách, cải tổ sai lầm, càng dẫn tới khủng hoảng trầm trọng hơn. Lợi dụng cơ hội này, chủ nghĩa đế quốc hoàn thiện chiến lược "diễn biến hòa bình", coi đó là chiến lược cơ bản để giành thắng lợi cuối cùng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1989, 1990, khi nội tình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã bộc lộ toàn diện sự khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, chủ nghĩa đế quốc đã dùng các thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ đánh đòn quyết định làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước này.
Về bản chất, so với các chiến lược và mục tiêu trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm chống đến cùng chủ nghĩa xã hội là không thay đổi. Trong tình hình và thời cơ mới, chiến lược này chỉ thay đổi phương thức và thủ đoạn, đó là "chiến thắng không cần chiến tranh", "không đánh mà thắng" hoặc "một cuộc cách mạng nhung", "cách mạng sắc màu", có nghĩa là, về bản chất sâu xa, họ vẫn tiến hành một cuộc chiến tranh, nhưng như họ đã từng tuyên bố, đó là "một cuộc chiến tranh không có khói súng". Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của chiến lược "diễn biến hòa bình" là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Để đạt được điều đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định các mục tiêu cơ bản sau:
Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược "diễn biến hòa bình" cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì vậy, mục tiêu phải đạt tới là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó là khâu đột phá của chiến lược "diễn biến hòa bình".
Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo là "độc tài", là "bóp nghẹt dân chủ", vì thế phải thay thế bằng chế độ chính trị đa đảng! Từ đó, tìm mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ lôi kéo một bộ phận quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch bỏ ra nhiều công sức và cả tiền bạc để lôi kéo, tập hợp "những người bất đồng chính kiến", thực chất là những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng họ làm "cơ sở", "nội ứng" cho việc thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình".
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế.
Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.
Sáu là, "phi chính trị hóa" để vô hiệu hóa quân đội và công an.
Những mục tiêu cơ bản trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và nếu để cho các thế lực thù địch thực hiện được thì điều không tránh khỏi là họ sẽ đạt mục đích cuối cùng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Nhận rõ bản chất, mục đích trên của chiến lược "diễn biến hòa bình", Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vạch trần: "thế lực chống chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào Đảng. Thủ đoạn họ thường dùng là xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng, đòi thực hiện nhân quyền và dân chủ kiểu tư sản, đòi phi chính trị hóa bộ máy nhà nước, đòi đa nguyên, đa đảng nhằm tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ lợi dụng những kẻ cơ hội, phản bội về chính trị hoặc thoái hóa về phẩm chất, đạo đức để chia rẽ, làm suy yếu, phá hoại Đảng từ bên trong" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng).
Như vậy, rõ ràng là "diễn biến hòa bình" và cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong giai đoạn mới.
3 - Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, đưa các mối quan hệ quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại để phát triển đất nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao và chân thành cảm ơn các nước, các tổ chức quốc tế đã có sự phối hợp, hợp tác trong sáng, ngày càng có hiệu quả với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Khẳng định nhất quán điều đó không hề mâu thuẫn với thái độ của chúng ta là chủ động ngăn chặn, giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của nước ta. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" nằm trong nhiệm vụ lớn trên đây.
Trong chiến lược "diễn biến hòa bình" chống chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động coi Việt Nam là một trong những trọng điểm để chống phá. Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở khu vực Đông Nam á, ngọn cờ đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Không khuất phục được nhân dân ta bằng vũ lực, bạo lực vì thất bại trong các cuộc chiến tranh xâm lược từ năm 1945 đến năm 1975, chủ nghĩa đế quốc, các thế lực phản động, thù địch thay đổi phương thức, thủ đoạn, dùng "diễn biến hòa bình" kết hợp bạo loạn lật đổ để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, đất nước ta đã không sụp đổ theo, mà ngược lại, đã đổi mới thành công, vững bước tiến lên trong một thế giới đầy biến động phức tạp và khó lường. Điều đó đã làm thất vọng các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội và với đất nước, dân tộc ta. Về mặt địa lý, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng về địa - chính trị, địa - kinh tế và địa - quân sự. Do vị trí đó, sự tiếp tục tồn tại và phát triển của một nước xã hội chủ nghĩa và của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở Đông Nam á làm cho các lực lượng chống cộng, thù địch tìm mọi cách để chống phá hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chống phá, làm tan rã Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực thù địch đã và đang chống phá Việt Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm chuyển hóa dần từ bên trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội, thực hiện "không đánh mà thắng". Phải nhận rõ, không chút mơ hồ rằng, đó là âm mưu cơ bản, lâu dài, không thay đổi, phản ánh bản chất chống chủ nghĩa xã hội của các thế lực phản động, thù địch. Âm mưu đó được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể, lợi dụng các quan hệ quốc tế, hợp tác, hội nhập, giao lưu, hỗ trợ... để chống phá, lấy chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế làm mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, "tôn giáo", "dân tộc", "nhân quyền" làm ngòi nổ kết hợp với răn đe, gây bạo loạn lật đổ.
"Diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị được các thế lực thù địch coi là trận tuyến hàng đầu trong chống phá ta. Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi mục tiêu, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước ta, tiến tới thực hiện "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", thực chất là gây dựng các thế lực chống đối chính trị ngay trong lòng Việt Nam. Thời gian qua, các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách thực hiện âm mưu này hòng "phá vỡ thế đồng nhất một khối của Đảng Cộng sản Việt Nam" và "làm cho phân tán chế độ cộng sản Việt Nam thành nhiều trào lưu đối kháng nhau" như tuyên bố đầy tham vọng và ảo tưởng của một số kẻ phản động là người Việt sống lưu vong.
Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch, phản động tập trung phản kích, phủ định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hoạt động mũi nhọn, đột phá để thực hiện ý đồ chiến lược làm chuyển hóa từ bên trong và bên trên của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Trong cuốn sách "1999 - chiến thắng không cần chiến tranh", Ních-xơn đã xác định "Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng". Đánh phá vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng ta và của xã hội ta, tạo ra một "khoảng trống tư tưởng" trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, từ đó tạo điều kiện thuận lợi du nhập hệ tư tưởng tư sản vào quần chúng, vào nội bộ ta.
Các thế lực thù địch, phản động tập trung mọi cố gắng để chứng minh sự "lỗi thời" của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng còn vu cáo Đảng ta đã "đem chủ nghĩa Mác - Lê-nin áp dụng máy móc, gượng ép vào Việt Nam", đồng thời quảng cáo cho mô hình "xã hội dân chủ" và khả năng đi theo "con đường thứ ba" phi xã hội chủ nghĩa, "đi dưới hai làn đạn". Chúng nuôi dưỡng, kích động các khuynh hướng cơ hội, hữu khuynh, dao động... trong cán bộ, đảng viên và quần chúng để nhằm tạo ra sự phân hóa, phân liệt, đối lập, xung đột trong đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của xã hội.
Các thế lực thù địch còn tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cố tình cho rằng "con đường Bác Hồ đã chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội" và "không có ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lê-nin". Gần đây, cùng với các âm mưu, thủ đoạn trên, chúng còn dựng chuyện bôi nhọ thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách trắng trợn, vô liêm sỉ.
Hiện nay, kẻ thù đang ráo riết chỉ đạo, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động phản tuyên truyền, trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng nhằm đổi trắng thay đen, lẫn lộn giữa công và tội, giữa người cách mạng và kẻ phản dân, hạ bệ thần tượng và các nhân vật lịch sử. Lợi dụng những vấn đề nhạy cảm làm ngòi nổ, các thế lực thù địch ra sức nêu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, dân chủ để gây rối, phá hoại ổn định chính trị đất nước, tạo dựng các "nguyên cớ" trong các lĩnh vực này để gây rối, bạo loạn. Một số vụ việc xảy ra trong thời gian qua thể hiện rất rõ các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền... để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng.
Để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch tìm mọi cách du nhập lối sống, đạo đức, văn hóa tư sản vào nước ta, làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển... Hiện nay, các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài phối hợp chặt chẽ với nhau để đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, tờ rơi, băng hình, băng nhạc có nội dung phản động, đồi trụy vào nước ta. Đặc biệt, trên mạng in-tơ-net, chúng đưa nhiều thông tin sai lệch, bịa đặt, độc hại để nhiều người có thể truy cập, qua đó tác động rất xấu đến nhận thức, tình cảm, văn hóa, lối sống của một bộ phận cư dân mạng.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Sự hợp tác kinh tế bình đẳng, cùng có lợi của nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đã tạo thuận lợi và thời cơ cho sự phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao và cảm ơn sự hợp tác đó. Cần phải khẳng định rõ ràng điều đó. Song, sự khẳng định đó không trái với một nhận định, đồng thời là một sự thật rằng, vẫn có những mưu đồ, ý định đen tối, lợi dụng các hoạt động kinh tế để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" một cách mềm dẻo, êm thấm nhưng rất thâm độc và nguy hiểm. Thông qua các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết, tài trợ... để từng bước làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, làm biến đổi dần cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế nước ta theo hướng tư bản chủ nghĩa, làm cho kinh tế Việt Nam lệ thuộc dần vào các trung tâm kinh tế quốc tế, Nhà nước không kiểm soát, điều hành được nền kinh tế cũng là một ý đồ được các thế lực thù địch tìm nhiều cách để thực hiện trong thời gian qua. Phát triển kinh tế tư nhân như là một trong những động lực của nền kinh tế là cần thiết và đúng đắn, là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng lợi dụng chủ trương đó để thực hiện ý đồ chỉ chú trọng đầu tư, thúc đẩy kinh tế tư bản tư nhân phát triển và cố tình phủ định, tìm cách làm suy yếu, vô hiệu hóa, làm mất dần vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đưa nền kinh tế nước nhà phát triển chệch định hướng xã hội chủ nghĩa lại nằm trong âm mưu lâu dài của chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực kinh tế đối với nước ta của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Cũng có những thế lực, thông qua các hoạt động kinh tế - hợp tác, đầu tư, liên kết, liên doanh, viện trợ... để đặt ra những điều kiện ràng buộc về chính trị, kể cả gây sức ép chính trị, từng bước can thiệp nội bộ và tạo sự chuyển hóa theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Cũng có một số cán bộ đã bị mua chuộc, lôi kéo, bị tha hóa dẫn tới biến chất về chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống do rơi vào cạm bẫy kinh tế của các thế lực phản động, thù địch.
Trong chiến lược "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam, các thế lực thù địch xác định lĩnh vực quốc phòng - an ninh và lực lượng vũ trang là một trong những mục tiêu trọng yếu phải tập trung làm suy yếu và phá hoại. Tham vọng ngông cuồng mà đầy ảo tưởng của họ là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối với lực lượng vũ trang. "Phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt mà các thế lực thù địch tập trung phá hoại bằng nhiều thủ đoạn hết sức đa dạng, bí mật và thâm độc nhằm làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, mất phương hướng, không làm tròn vai trò lực lượng nòng cốt trong đấu tranh, đặc biệt trong những "thời điểm nóng" và bất ngờ.
Để phá hoại an ninh quốc gia, các thế lực phản động đã đồng thời sử dụng một nhóm kẻ phản động người Việt Nam ở nước ngoài móc nối với các tổ chức phản động trong nước, hỗ trợ, kích động các đối tượng cực đoan, phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc nhằm phát triển lực lượng, chống phá chính quyền, đe dọa an ninh quốc gia, tổ chức hoạt động bạo loạn, lật đổ.
Thực tiễn những năm qua đã chứng minh rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với nước ta. Đây là cuộc đấu tranh không có chiến tuyến, không có khói lửa, súng đạn, song rất quyết liệt, tinh vi và ngày càng phức tạp. Kẻ thù âm mưu chống phá ngầm từ bên trong, từ bên trên, kết hợp tạo sự chuyển hóa cả bên trong và bên trên với bạo loạn, lật đổ khi có thời cơ để xóa bỏ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Các phương tiện sử dụng của kẻ thù rất đa dạng, kết hợp giữa tuyên truyền theo kiểu "rỉ tai", tâm lý chiến với việc sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
4 - Thực tiễn đã chỉ ra rằng, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" hiện nay và những năm sắp tới ở nước ta là một hình thái mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, tinh vi và lâu dài trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống... của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả dân tộc ta nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức dứt khoát, rõ ràng rằng, cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt dân tộc. Tách rời hay đối lập hai nội dung đó sẽ dẫn tới sai lầm trong nhận thức, chỉ đạo và tổ chức đấu tranh. Giành thắng lợi trong chống "diễn biến hòa bình", chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và giữ được chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu cao cả "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". Do đó, nếu lơ là, mất cảnh giác, nghi ngờ cho rằng, Đảng thổi phồng nguy cơ "diễn biến hòa bình, tự chuyển hóa, tự diễn biến" từ đó lẩn tránh, không tích cực, thiếu chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch thì sự tồn tại của dân tộc, chủ quyền quốc gia và của chế độ bị đe dọa trực tiếp. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, chống bạo loạn, lật đổ là quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
Trong cuộc đấu tranh này, vấn đề có ý nghĩa quyết định là xác định đường lối đúng trong chiến lược phát triển đất nước trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Đảng và Nhà nước không thể phạm sai lầm về đường lối, kiên quyết và tỉnh táo chống các khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, cả khuynh hướng hữu khuynh và tả khuynh. Dự thảo các văn kiện trình đại hội lần thứ XI của Đảng sắp tới, sau khi được cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân góp ý, bổ sung và được Đại hội thảo luận, thông qua sẽ là quan điểm, đường lối có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cần quán triệt sâu sắc, chỉ đạo sát sao, tổ chức thực hiện một cách kiên trì, khoa học và quyết liệt những nội dung trong các văn kiện trên. Đó là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình". Kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững, chính trị ổn định, xã hội tốt đẹp, văn hóa tinh thần lành mạnh, quan hệ quốc tế mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao là điều kiện bảo đảm vững chắc làm thất bại các mưu đồ và thủ đoạn thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với nước ta của các thế lực thù địch.
Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, cần tạo nên sức mạnh vô địch bằng cách phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan điểm "sức mạnh tổng hợp" đã được thực hiện thành công trong đấu tranh cách mạng, trong chiến tranh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc trước đây phải được phát huy cao độ và phát triển trong cuộc đấu tranh mới này. Mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức và mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, coi cuộc đấu tranh này là nhiệm vụ chung, có trách nhiệm tham gia tự nguyện, tích cực, có hiệu quả để nhân lên sức mạnh chung của toàn dân tộc mạnh hơn hẳn sức mạnh chống phá của các thế lực thù địch.
Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo trên, trong hoạt động thực tiễn, cần quán triệt các phương châm cơ bản sau:
Một là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công. Ngăn chặn, phòng ngừa từ xa, từ trước, đồng thời phải chủ động tiến công từ trong "trứng nước", từ nơi xuất phát của các âm mưu, ý đồ, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", là phương châm đúng đắn, đã được thực tiễn kiểm nghiệm thời gian qua.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây vững mạnh là chính, đồng thời coi việc chủ động, kiên quyết chống là quan trọng. Đó là hai mặt quan hệ chặt chẽ với nhau bảo đảm cho thắng lợi của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình". Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng, thời gian qua, nơi nào, tổ chức nào, đơn vị nào làm được điều đó sẽ tạo nên sức mạnh vững chắc, các thế lực thù địch không tìm được "kẽ hở", điểm yếu để thực hiện âm mưu đen tối "diễn biến hòa bình", để tạo ra sự "tự diễn biến, tự chuyển hóa".
Ba là, kiên trì và tỉnh táo giữ vững bên trong, làm thất bại tác động chuyển hóa từ bên ngoài, coi giữ vững bên trong, có ý nghĩa quyết định, đồng thời làm thất bại tác động chuyển hóa từ bên ngoài là thường xuyên và quan trọng. Làm được điều này, những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch tác động từ bên ngoài sẽ không có kết quả, sẽ bị vô hiệu hóa. Đó là một bài học thực tiễn sâu sắc được đúc kết trong thời gian qua.
Chúng ta phải dựa vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để xây dựng mục tiêu, quyết định đường lối, chiến lược cách mạng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng, là nguyện vọng, con đường và lẽ sống của nhân dân ta, của cả dân tộc ta. Cần kiên trì làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thấu hiểu và kiên định mục tiêu cao cả trên, từ đó cảnh giác đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị có tham vọng phủ định, xóa bỏ mục tiêu đó.
Triển khai cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong nhiệm vụ chống chiến lược "diễn biến hòa bình" hiện nay. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục đổi mới là chủ trương, định hướng quan trọng của Đảng ta. Chúng ta lắng nghe, tiếp nhận có chọn lọc tất cả những tìm tòi khoa học về những vấn đề lý luận quan trọng phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để phát triển đất nước và chấn hưng dân tộc. Đó là thái độ cầu thị thực sự của Đảng ta, không được biến nó thành thủ pháp, thành hình thức. Đồng thời, chúng ta cũng kiên quyết phản bác những quan điểm phản động, cố tình phủ định, xuyên tạc những quan điểm cốt lõi, có tính nguyên tắc mà Đảng ta đã tổng kết từ thực tiễn cách mạng, đặc biệt từ thực tiễn đổi mới 25 năm qua. Chúng ta cần tập hợp trí tuệ của cả dân tộc, trao đổi, thảo luận, tranh luận dân chủ, khoa học, thiện chí, tâm huyết để đi tới thống nhất và đồng thuận cao trên những vấn đề lý luận hệ trọng nhất của sự nghiệp cách mạng thời kỳ mới. Một loạt những vấn đề lớn trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng đang được toàn dân nghiên cứu, góp ý kiến. Đây là cơ hội lớn để Đảng ta lắng nghe, chắt lọc, tổng hợp, từ đó xây dựng được những văn kiện có giá trị quyết định trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới. Và đó sẽ là sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực phản động, thù dịch ở vào một thời điểm rất quan trọng hiện nay - đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng sắp tới.
Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới, của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình". Chúng ta đã làm được nhiều việc lớn, có tác dụng tích cực, song phải thừa nhận rằng, trong lĩnh vực rất hệ trọng này, còn nhiều việc phải làm để hiện thực hóa yêu cầu thực hành dân chủ trong Đảng và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Thời gian tới, cần kiên quyết chỉ đạo việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng về vấn đề dân chủ, quyền làm chủ, quyền phản biện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng; làm rõ hơn nữa, cụ thể hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Nghiên cứu, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng toàn diện của hệ thống đó, bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc cao nhất là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân trên cơ sở Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
Từ những định hướng trên, tất cả các cấp, các ngành, dưới sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, cần triển khai đồng bộ, thường xuyên cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực cụ thể: Chính trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Cần chú trọng tính đặc thù trong từng lĩnh vực để lựa chọn, xác định nội dung, phương thức, phương pháp đấu tranh thích hợp, hiệu quả cao. Cần đặc biệt quan tâm, có kế hoạch xây dựng lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia đấu tranh, triển khai đấu tranh có lý, có tình, nâng cao sức thuyết phục, sự cảm hóa và tính khoa học trong đấu tranh trên từng lĩnh vực cụ thể.
Nhân tố quyết định, nội dung và giải pháp đặc biệt quan trọng mà Đảng cần tiếp tục triển khai là tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng với những yêu cầu và phương thức mới, phù hợp với thời kỳ mới, đặc biệt sau Đại hội XI của Đảng. Cuộc vận động mang ý nghĩa cực kỳ sâu sắc này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của Đảng, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, phòng chống căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang có nguy cơ làm suy yếu uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng và sự tồn vong của chế độ. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin, uy tín của Đảng trong lòng nhân dân, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng là câu trả lời đầy sức thuyết phục chống lại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta./.
Nguồn: www.tapchicongsan

Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch coi “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận, tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới chuyển hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, nhận rõ bộ mặt thật của thủ đoạn thâm độc này để có phương sách đấu tranh phù hợp, hiệu quả là rất cần thiết.

Không mấy khó hiểu khi các thế lực thù địch sử dụng con bài tư tưởng, văn hóa làm đòn tấn công phủ đầu, dọn đường thực hiện các thủ đoạn khác để chống phá cách mạng nước ta. Bởi, chúng hiểu quá rõ vai trò to lớn của tư tưởng, văn hóa trong chỉ đạo hành động của con người và định hướng quá trình đi lên của một quốc gia, dân tộc. Thực tế cho thấy, nền tảng văn hóa, tư tưởng vững chắc sẽ làm cho con người luôn gắn bó với cộng đồng, tạo sức mạnh nội sinh, sự đồng thuận xã hội, truyền thống yêu nước, thương nòi, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự phát triển bền vững trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu tư tưởng, văn hóa không vững, sẽ dẫn đến sự thiếu đồng nhất, phân rã về tư tưởng trong xã hội; lai căng, xuống cấp về bản sắc văn hóa; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; người dân thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và con đường đi lên của dân tộc. Và điều đó sẽ dẫn đến hậu quả: chính trị khủng hoảng, kinh tế trì trệ, pháp luật kém hiệu lực, nền tảng xã hội lung lay, tạo mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch “tự tung tự tác” bằng những mưu mô, thủ đoạn để chuyển hóa, thay đổi chế độ. Tình trạng đó sẽ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong xã hội, gây nên những tổn thất khó lường đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và vận mệnh của Đảng, chế độ. Kịch bản này đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là không thay đổi. Bởi mục tiêu cuối cùng của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Để đạt điều đó, chúng từng bước phá vỡ, đẩy lùi lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, đời sống tinh thần của xã hội với thủ đoạn tuyên truyền, rằng: “Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã thuộc về quá khứ, một quá khứ thật oanh liệt, đầy hào hùng và những bi kịch, mà không thuộc về hiện tại, lại càng không thuộc về tương lai”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh không còn phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nên không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”, v.v. Đồng thời, tăng cường công kích, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà dân tộc ta đã lựa chọn. Chúng lý sự rằng, con đường đó “không còn phù hợp với quy luật của lịch sử, làm cho đất nước không thể phát triển” và đòi Việt Nam từ bỏ con đường đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Càng gần đến thời điểm tiến hành Đại hội lần thứ XII của Đảng thì chiến dịch chống phá của các thế lực thù địch càng được đẩy lên cao. Lợi dụng việc Đảng ta tổ chức lấy ý kiến trong Đảng và nhân dân về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII, chúng tập trung chống phá đường lối, Cương lĩnh, nhân sự cấp cao của Đảng và cho rằng “Văn kiện Đại hội XII sắp tới chỉ mang tính lý luận hình thức, không dám chỉ ra khuyết điểm, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, không giải quyết được những bức xúc của nhân dân, đặc biệt là vấn đề dân chủ, nhân quyền và phòng, chống tham nhũng”. Từ đó, đòi hỏi được thành lập nhóm “đặc biệt” có toàn quyền chuẩn bị dự thảo, báo cáo chính trị và đề xuất những ý kiến theo nhận thức chủ quan mà không câu nệ vào Hiến pháp, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Thông qua mạng xã hội, với cái gọi là “Chân dung quyền lực”, chúng bịa đặt, thổi phồng thiếu sót, khuyết điểm, bôi nhọ danh dự cán bộ lãnh đạo chủ chốt Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an, gây sự phân tâm, nghi ngờ, phai nhạt niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, các thế lực thù địch còn thúc đẩy “dân chủ hóa” hoạt động Quốc hội, lợi dụng “cải cách hành chính” nhằm chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta thông qua việc đòi “cải tổ hệ thống chính trị, cải tổ Chính phủ, cải tổ cách thức điều hành đất nước”; tăng cường quảng bá “3 trụ cột”: xã hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền theo hướng tư bản chủ nghĩa, làm cho Việt Nam chệch con đường xã hội chủ nghĩa.
Với mưu đồ chuyển hóa hệ thống thang giá trị trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, chúng phủ nhận Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) khi cho rằng, đánh giá thành tựu 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) là hoàn toàn “thiếu cơ sở” vì thực tế cho thấy ở Việt Nam, đạo đức xã hội đang bị “băng hoại nghiêm trọng”, các quyền tự do báo chí, ngôn luận, biểu tình của người dân đã bị Đảng “khất nợ”, v.v. Tranh thủ những yếu tố khách quan xuất hiện trong bối cảnh nước ta đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá các “giá trị” văn hóa, lối sống phương Tây, hệ tư tưởng tư sản; xóa bỏ truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, làm phai nhạt bản sắc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, quốc phòng - an ninh, báo chí, truyền thông, hội thảo, triển lãm, tài trợ,… để từng bước hình thành các tổ hợp, tập đoàn, câu lạc bộ, nhóm nhà báo, báo tư nhân, trang thông tin điện tử, cơ quan ngôn luận của “lực lượng dân chủ” ở Việt Nam. Lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, chúng xuyên tạc thực trạng xã hội, khoét sâu yếu kém, làm ra vẻ như ở Việt Nam đang có khủng hoảng về kinh tế - xã hội, tình trạng tham nhũng tràn lan, không kiểm soát được, v.v. Trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật, báo chí, xuất bản, chúng ra sức vận động thành lập “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”, “Công đoàn độc lập”; tán phát một số cuốn sách được xuất bản ở hải ngoại, như: “Con đường Việt Nam” của Trần Huỳnh Duy Thức, “Bên thắng cuộc” của Huy Đức, “Đèn cù” của Trần Dĩnh,… nhằm “bôi nhọ” đời tư của các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, v.v.
Chúng nhen nhóm hình thành, củng cố các tổ chức, “liên tôn” để tập hợp lực lượng, tung tin xuyên tạc Việt Nam “vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền”, “đàn áp những người bất đồng chính kiến” và kích động quần chúng gây rối, chống đối chính quyền. Đồng thời, khuyến khích tư tưởng hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc, hướng đồng bào về cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”, “Nhà nước Đề ga Mông - ta - nha”, “Vương quốc Khơ me Crôm”; đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, đào tạo, nhen nhóm chuẩn bị lực lượng chống đối, thúc đẩy di cư tự do, vượt biên trái phép, khiếu kiện đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, hoạt động của các phần tử đội lốt tôn giáo,… gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Đáng chú ý là, chúng tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động trong nước với nước ngoài để dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, hình thành phe phái đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam; triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin, như: in-tơ-nét, viễn thông, đài phát thanh nước ngoài, phát hành ấn phẩm, tờ rơi,… để đăng tin, bài, tán phát tài liệu chống phá ta, nhất là vào dịp Đảng ta tiến hành đại hội các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng.
Đối với lực lượng vũ trang, các thế lực thù địch xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững là do vẫn nắm được lực lượng vũ trang, nếu đánh đổ được lực lượng này, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mất chỗ dựa, khi đó chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ tan rã giống như Đông Âu và Liên Xô trước đây”, nên chúng ra sức tác động chuyển hóa, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Chúng tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; kích động gây rối nội bộ, chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân, Quân đội với Công an và các tổ chức, đoàn thể xã hội khác. Không những thế, chúng còn đòi tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, từng bước thực hiện “dân sự hóa Bộ Quốc phòng”, “hành chính hóa quân sự”, nhằm biến Quân đội thành đội quân chuyên nghiệp, nhà nghề, phi chính trị. Cùng với đó, chúng đẩy mạnh tuyên truyền, xâm nhập các loại văn hóa độc hại, lối sống cơ hội, thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, vô cảm vào trong các đơn vị, đầu độc đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, với mục đích hình thành lối sống tiêu cực, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục của dân tộc và bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội cách mạng - “Bộ đội Cụ Hồ”, v.v.
Có thể khẳng định, chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mà trọng tâm là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, thâm độc. Xét về nội dung tuy không mới, nhưng về thủ đoạn, cách thức tiến hành thì chúng có sự điều chỉnh. Nguy hiểm hơn, hoạt động tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch tập trung vào đối tượng chủ yếu là thế hệ trẻ, các doanh nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo; đi sâu vào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống - nơi mà trình độ dân trí so với mặt bằng chung của cả nước còn thấp, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng, bản sắc văn hóa của dân tộc. Đối với các đơn vị Quân đội, cần làm tốt việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ của các đơn vị; nắm vững định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì và vai trò của ban chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở từng cấp. Toàn quân tập trung giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ; giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân, truyền thống vẻ vang của Quân đội trong từng thời kỳ; ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đồng thời, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh; nâng cao sức “tự đề kháng”, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong từng tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, đảm bảo cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đóng vai trò nòng cốt trong giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Tỉnh táo đẩy lùi sự xuyên tạc của Bùi Tín

Bùi Tín -vốn là người “ăn cơm dân, mặc áo đảng” song lại đi ngược với con đường mình đã chọn. Đọc bài viết của ông Tín mọi người đều dễ dàng nhận ra rằng, những “cứ liệu” mà ông đưa vào bài viết chẳng qua là sự nhặt nhạnh theo kiểu “nghe hơi nồi chõ” mà không hiểu vấn đề. Nào là Đảng Cộng sản đã cướp chính quyền và ngự trị trên đất VN tròn 71 năm để rồi biên giới bị bỏ ngỏ toang hoang cho mọi kiểu tai ương và tội ác hàng ngày; hay là việc khai thác bô xít độc hại ngang nhiên tàn phá môi trường sống của các dân tộc Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ bị diệt chủng; rồi thảm họa môi trường Formosa - Plastics ở miền Trung vài thập kỷ mới hồi phục… Đây thực chất là một trong những hoạt động chống phá càng phức tạp với thủ đoạn tinh vi nhằm chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, lung lạc niềm tin trong nhân dân.

Sinh thời, Bác Hồ luôn xử lý tình huống phức tạp một cách chuẩn xác, uyển chuyển, tinh tế với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta thù trong giặc ngoài, khó khăn chồng chất, nhưng Người tin vào sức mạnh của nhân dân, chủ trương đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Người chú trọng củng cố niềm tin cho nhân dân, cán bộ đảng viên trước khó khăn, thử thách. Đây chính là sức mạnh nền tảng giúp giữ vững chế độ. Tiếng nói tích cực của nhân dân ủng hộ cách mạng, chế độ đủ sức áp đảo các thông tin tuyên truyền nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ. Người căn dặn: “Cách mạng phải lấy sức mạnh trong lòng dân”. Để xây dựng sức mạnh lòng dân, Đảng ta phải có những hành động thực tế mang lại lợi ích thiết thực, tôn trọng quyền dân chủ và làm chủ của dân. Chính nhân dân sẽ là người làm chủ bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng. Bác nhấn mạnh phải làm sao cho dân tin tưởng, dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thì được dân giúp đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ.

Những luận điệu xuyên tạc, lừa mị, mê hoặc, kích động, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta thực chất là chống lại nhân dân. Chúng ta cần phải biết rõ, tỉnh táo, chủ động phản bác lại những luận điệu xuyên tạc ấy. Lấy cái tích cực, đúng đắn, chính đáng chng lại cái tiêu cực, xuyên tạc, sự giả dối; lấy sự “quang minh chính đại”, “dĩ công vi thượng”, đặt việc dân, việc nước lên hàng đầu như lời Bác dạy đ đy lùi cái xu. Một khi Đảng được dân tin yêu thì không thế lực nào có thchống phá. Chính sự đoàn kết, đồng thuận giữa nhân dân với Đảng là yếu tố quyết định. Đảng vì dân mà tồn tại, dân tin Đảng, bảo vệ Đảng chính là bảo vệ cuộc sống của chính mình. Do đó chỉ có lực lượng vô địch của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một đảng cách mạng thì mới đủ khả năng làm điều đó. Và như lịch sử đã ghi nhận, nhân dân ta, Đảng ta đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, biến đất nước Việt Nam từ một nước thuộc địa thành một đất nước có chủ quyền, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên giữ vị trí chủ nhân của đất nước. Đó mới chính là lịch sử, chng lẽ ông Tín và một số người cố tình không hiu?

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải giữ vững niềm tin, tiên phong gương mẫu. Mỗi người dân có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, chế độ, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Hiểu biết về pháp luật để tự bảo vệ mình, đồng thời bảo vệ sự nghiệp xây dựng và phát triến đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tỉnh táo phân biệt những thông tin đúng, chính thống để giữ vững niềm tin, hành động đúng đắn, tránh rơi vào luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.

Thanh Vân

Vạch trần âm mưu “làm cho thế hệ trẻ Việt Nam không biết đến chủ nghĩa Mác – Lê Nin, thay đổi ý thức Hệ và thay đổi chế độ”

Vừa qua diễn ra sự kiện Đại học Fulbright Việt Nam (tên tiếng Anh là Fulbright University Vietnam, viết tắt là FUV) là một trường Đại học tư thục với 100% vốn đầu tư của Mỹ, chính thức thành lập vào tháng 5 năm 2016 tại Việt Nam theo thỏa thuận của Chính phủ hai nước. Đây là trường Đại học đầu tiên ở Việt Nam hoạt động theo mô hình phi lợi nhuận và được kỳ vọng sẽ tạo ra những đột phá trong giáo dục đại học ở Việt Nam. Lợi dụng sự kiện này, cùng với những hạn chế bất cập đang diễn ra trong nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin của hệ thống các trường cao đẳng – đại học ở Việt Nam. Các phẩn tử phản động, cơ hội chính trị mạo danh góp ý “đổi mới giáo dục” đã xuyên tạc đòi xét lại, đổ lỗi, phủ nhận vai trò của việc giảng dạy, học tập các môn lý luận Mác – Lênin hòng đánh lạc hướng dư luận, phục vụ cho âm mưu chính trị thâm độc và tinh vi của chúng. Với các bài viết như “Về việc dạy chính trị ở đại học Việt Nam”;  “Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy Chủ nghĩa Mác: Nên lắm!”…Trong đó đặc biệt nguy hiểm và thâm độc hơn cả là bài viết “Ghi chép một số nhận định về việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lê nin tại Việt Nam” của Trần Văn Chánh.
                              
Đây là bài viết hết sức thâm hiểm nếu không đọc kỹ và không có một bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ rất dễ bị ngộ nhận lầm tưởng đó là một bài viết góp ý chân thành, trung thực và khách quan  của tác giả. Bởi ông ta – Trần Văn Chánh - rất “khéo léo” che dấu dã tâm thực sự của bản thân và chỉ nhận mình là người  “ghi chép” tổng hợp lại những nhận định, ý kiến của rất nhiều người và có trích dẫn cụ thể, rõ ràng. Với trình độ GS.TS và sự “già dơ”, Chánh đã sâu chuỗi “biên tập”, “nhào nặn” và diễn giải các ý kiến mà ông ta đã rất dày công thu thập qua cả thập kỷ để lồng ghép động cơ, thủ đoạn chính trị “đớn hèn” đến “bẩn thỉu”, “kinh tởm” của bản thân.  Đầu tiên ông ta dùng những câu chuyện, đoạn trích ẩn ý với nghĩa lập lờ để tạo ra sự hoài nghi cho người đọc về vai trò, vị trí của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau đó đi vào phân tích thực trạng nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin tại Việt Nam mà chủ yếu là chê bai, nhạo báng, thậm chí “bêu riếu”. Chưa dừng lại ở đó cái “đểu giả”, “khốn nạn” nhất  là những góp ý của ông ta về việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin trong các trường cao đẳng – đại học nghe có vẻ rất tâm huyết như “cách giảng dạy – hấp thụ cũ kỹ như từ trước, thực tế đầu óc các em sinh viên chẳng những không vỡ vạc ra điều gì mới mẻ về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp làm việc…, trái lại còn trở thành những kẻ nô lệ đáng tội nghiệp, từ đó thui chột hết tinh thần phê phán và óc sáng tạo (vốn là linh hồn của chủ nghĩa Mác đích thực)” . Ông ta cho rằng “cần cải tổ căn bản và thích hợp” để “sinh viên Việt Nam tại các trường cao đẳng – đại học đỡ khổ, mà có điều kiện tập trung lo trau dồi những loại kiến thức khác bổ ích hơn vừa cho bản thân các em, vừa cho cả toàn xã hội”. Đến đây thì Chánh đã lộ rõ nguyên hình và mục đích chính trị hèn hạ xuyên suốt trong bài viết của ông ta là nhằm hạ thấp giá trị và đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhưng cái thâm hiểm là ở chỗ ông ta muốn các trường cao đẳng – đại học ở Việt Nam loại bỏ hẳn các môn lý luận Mác – Lênin ra khỏi chương trình học chẳng qua là để thế hệ trẻ Việt Nam – chủ nhân tương lai của đất nước – không còn biết đến chủ nghĩa Mác – Lênin, hiểu ít hơn về chính trị, không lập trường, không quan điểm chính trị, không lý tưởng, sống thực dụng, thích hưởng thụ kiểu phương Tây để dễ bề lôi kéo. Từ đó mất phương hướng và chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thay đổi chuyển hóa chế độ ta theo kiểu “Diễn biến hòa bình”.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là một khoa học, hơn nữa là một khoa học biện chứng, hiện đại và khách quan về những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.Cho dù có những kẻ cố tình bóp méo, xuyên tạc hay phủ nhận thì giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn có sức sống mãnh liệt và giá trị bền vững. Chỉ có kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mới đảm bảo cho Đảng ta có lập trường vững chắc, có phương pháp cách mạng và khoa học để xử lý đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh, đưa ra đường lối, chiến lược và chính sách đúng đắn để lãnh đạo nhân dân ta nắm lấy thời cơ, vận hội, vượt qua thách thức tiến tới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị lịch sử trong thời kỳ mới.

Vì vậy, Đảng ta rất quan tâm, chú trọng đến việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ. Đồng thời, phải thừa nhận thực tế hiện nay trong nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường cao đẳng – đại học ở nước ta cũng còn một số hạn chế, bất cập cần phải được điều chỉnh, đổi mới trong thời gian tới. Chúng ta rất hoan  nghênh những ai có ý kiến đóng góp thẳng thắn, chân thành, nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên nếu lợi dụng và nhân danh đóng góp ý kiến để thực hiện mục đích chính trị, “viết thuê” cho ai đó là điều đáng lên án và cần phải đấu tranh để vạch rõ bộ mặt của những kẻ tha hóa phẩm chất như bài viết trên của Trần Văn Chánh.

Giang Nguyên

Nhận diện, đấu tranh diệt “Chánh”

Nhằm chống phá Đảng, Nhà Nước và Nhân dân ta trên mặt trận tư tưởng lý luận; với âm mưu và những thủ đoạn thâm độc hòng làm mất đi hệ tư tưởng nền tảng của một dân tộc- Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau một thời gian chống phá bất thành, vẫn với chiêu bài cũ lần này Y- Trần Văn Chánh đã sử dụng thủ đoạn tinh vi lắt léo hơn nhưng cũng không thể dấu được bộ mặt thật của mình. Ôm hôn chủ nghĩa Mác – Lênin để chống phá chủ nghĩa Mác- Lênin không thành. Lần này, Hắn vẫn tiếp tục ôm hôm ngợi ca giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác- Lê nin – sự giả tạo gượng gạo mà đọc lên ai cũng có thể thấy hiện lên trên khuôn mặt cơ hội chính trị của hắn khi lợi ích cá nhân hắn ko đạt được để từ đó hắn tìm con đường khác chống phá chủ nghĩa Mác-lênin và chống phá Việt Nam. Hắn nhằm vào sự vận dụng chủ nghĩa Mác lênin ở việt Nam nói riêng và trong hệ thống các nước XHCN nói chung để chống phá mà cụ thể là việc giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin cho học sinh, sinh viên ở các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta. Đây là một chiều bài hết sức tinh vi nhằm mục đích “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân với Đảng nhất thế hệ trẻ học sinh, sinh viên và đội ngũ trí thức trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy Y thường xuyên theo dõi, bám nắm mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta. Hắn đã “dày công” nghiên cứu, tổng hợp có hệ thống; tận dụng triệt để những hạn chế, yếu kém, sơ hở trên các mặt, nhất là về chính trị, kinh tế, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại qua báo cáo chính thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành, địa phương… xem đó là điểm tựa “chứng minh” cho những quan điểm, chính kiến, nhận định sai lầm của Hắn.

Bằng việc tập hợp ý kiến, phát biểu của những người có “uy tín”, “vị thế” nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, trái với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước; kết hợp với sự tích hợp, dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về chính trị từ những kẻ mang danh “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, “chủ bút” báo này, tạp chí nọ… để trực tiếp xen lồng, tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch với chế độ ta làm mất niềm tin với Đảng, đòi tự do về tư tưởng, tự do về chính trị, dẫn đến đa nguyên chính trị đa đảng đối lập làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với Nhà nước và toàn xã hội(1 bài học đắt giá mà trước đây Liên Xô đã phải gánh chịu hậu quả cực kỳ đau đớn cho đến chết). Bài Viết “ ghi chép một số nhận định về việc nghiên cứu giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lê nin tại Việt Nam” của Chánh là bài viết không nằm ngoài ý đồ đó.

Để góp làm thất bại âm mưu đen tối phản động, phản nước hại dân, đầu độc thế hệ trẻ của Chánh. Là một sinh viên Việt Nam theo tôi mỗi chúng ta không phân biệt nam hay nữ người trưởng thành, người già hay trẻ nhỏ hễ cứ là người Việt Nam thì phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của bọn phản động nhất là với Trần Văn Chánh, luôn kiên định lập trường tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, công cuộc đổi mới của đất nước. luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động, không ngừng ra sức nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thêm yêu nước, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước dân tộc; có thế giới quan phương pháp luận khoa học cách mạng nhận rõ phải-trái, đúng- sai, tự tin bản lĩnh trong cuộc sống lạc quan yêu đời, yêu tổ quốc làm chủ cuộc sống, chủ nhân của đất nước./.

Chung Hữu

Vài suy nghĩ về “ Ghi chép một số nhận định về việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lê nin tại Việt Nam” của Trần Văn Chánh

Chủ nghĩa Mác-Lênin từ khi ra đời đến nay ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển đi lên của lịch sử nhân loại. Với tính chất cách mạng, khoa học của mình chủ nghĩa Mác- Lênin đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam và vũ khí sắc bén của công nhân toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Cũng chính bởi tính chất cách mạng, khoa học mà Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn bị các thế thực phản động, phi cách mạng, phi khoa học liên tục chống phá với tính chất ngày càng điên cuồng và cách thức ngày càng tinh vi, đặc biệt là sau khi Liên bang Xô- Viết sụp đổ.

Khác với lối tư duy truyền thống trong chống phá lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là đi tìm những bất hợp lý của của học thuyết và những sai lầm trong xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước, một số hạn chế trong xây dựng, hoạch định chính sách, cùng với đó là sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản ngày nay để đưa ra hệ thống các luận điệu xuyên tạc để cố gắng trình bày rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin là sai, là không tưởng hoặc không phù hợp với xã hội ngày nay, xã hội tư bản mới là xã hội mà con người hướng tới, từ đó phủ nhận vai trò nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân nói chung, của Đảng cộng sản nói riêng, đối với Việt Nam là kêu gọi phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trần Văn Chánh đã có một cách tiếp cận rất mới, một cách tiếp cận có vẻ như hợp lý, có phần sáng tạo đầy tư duy của một nhà nghiên cứu đó là từ việc nghiên cứu, giảng dạy Chủ nghĩa Mác- Lênin tại Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, có vẻ như bài viết không có vẻ gì như là phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin, dường như chỉ là một ý kiến nhằm “ để rộng đường tham khảo về việc nghiên cứu- giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lênin” với một mong muốn cũng có vẻ rất trong sáng “ Hi vọng có một cuộc cải tổ căn bản và thích hợp trong một tương lai không xa” và hình như rất thông cảm với sinh viên của chúng ta. Song đi sâu vào bài viết mới thực sự nhận ra rằng ẩn sâu trong cái ý kiến, mong muốn và sự cảm thông đó là một động cơ thấp hèn, một âm mưu thâm độc và một lối tư duy chắp vá, nông cạn của ông Chánh, ngoài việc ông ta chắp ghép, đưa ra những luận điểm đã cũ kỹ, lỗi thời của ông ta ra thì không hề có một chút mới mẻ nào cả, thậm chí còn đưa ra những nhận định sai và xuyên tạc sự thật trong những phần mà ông ta trích dẫn, ông ta cố gắng để tỏ ra mình là người am hiểu hay có chút hiểu biết và có sự nghiên cứu về lí luận để bình luận, nhận xét trên nội dung mà ông ta đã cố tình đưa vào bài viết. Ở đây có thể thấy rằng bằng cái cách đánh giá một cách thiếu khách quan về việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin ở nước ta hiện nay để xuyên tạc chúng ta áp dụng chủ nghĩa Mác- Lênin một cách giáo điều, rập khuôn, máy móc, ko có sự sáng tạo, phát triển và để hạ thấp vai trò của Chủ nghĩa Mác- Lênin trong xu hướng vận động của lịch sử.
Bắt đầu từ cách vào đề, ông Chánh đã tỏ ra không mấy ủng hộ việc giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta rồi, bằng chứng là cái cách ông ta nói rằng việc giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đòi hỏi có tính cố hữu, đó là vấn đề “không thời sự”. Phải chăng đó là một sự không đồng tình, một sự bức xúc có căn nguyên? Và bắt đầu ông ta ngụy biện cho các sự ko đồng tình và bức xúc ấy thông qua một loại các ngụy chứng, cho rằng, việc nghiên cứu-giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lênin mang tính giáo điều, tầm thường hóa, thiếu thực tế và kém hấp dẫn, đó là môn bắt buộc phải học chứ không phải xuất phát từ sự cần thiết và thực tiễn cuộc sống để nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Đó thực sự là một nhận định vô cùng sai lầm.

Tại sao cần thiết phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin? Đó là bởi vì ngoài tính chất cách mạng, khoa học, đề ra phương pháp nhận thức và cải tạo thực tiễn, là một học thuyết mở, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân thế giới… thực tiễn đã chứng minh một cách sâu sắc, hoàn bị, thì bản thân ông Chánh có lẽ cũng đọc nhiều, biết nhiều, nhưng có một điều không biết ông Chánh có biết hay không, hay cố tình tỏ ra không biết, đó là tính chất vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với lịch sử Việt Nam hiện đại.

Có thể nói rằng lịch sử Việt Nam hiện đại từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đó là sự vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh đất nước ta một cách hết sức sáng tạo, mà người khởi xướng chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một học trò xuất sắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ đó mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi huy hoàng, có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử, hay nói cách khác là chủ nghĩa Mác-Lênin đi song hành cùng lịch sử Việt Nam thời kỳ hiện đại. Nhờ có ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng lên giành độc lập tự do cho dân tộc, đưa người dân từ thân phận nô lệ lên làm người chủ thực sự của một đất nước tự do, đó cũng là cơ sở sức mạnh tổng hợp để nhân dân ta đánh đuổi thực dân, đế quốc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trước đây và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Do đó, muốn hiểu biết được lịch sử Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc cần phải học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là yêu cầu cần thiết của người Việt Nam nói chung và học sinh, sinh viên Việt Nam nói riêng, chứ không phải ngành này thì học mà ngành khác không học. Một suy nghĩ nào đó muốn tách rời chúng đều dẫn đến sai lầm về cả mặt nhận thức cũng như thực tiễn. Đó cũng là động lực lớn cho công tác nghiên cứu-giảng dạy và học tập một cách sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận xét “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” và Người cũng yêu cầu khi học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế … Học để mà làm”; đồng thời, Người cũng phê phán kiểu học thuộc lòng chủ nghĩa Mác, đó là kiểu học “mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta nhầm lẫn”. Quán triệt chỉ dẫn và những yêu cầu của Người trong dạy và học lí luận Mác - Lênin, để không rơi vào “lý luận suông”, bài giảng các môn lý luận Mác – Lênin phải có tính thực tiễn cao, phải luôn liên hệ với thực tiễn.

Sự thể hiện rõ nhất của sự nghiên cứu phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đó là đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội, và kết quả đầy sức thuyết phục thông qua sự phát triển toàn diện đất nước trên tất các các lĩnh vực đời sống xã hội là Kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quan hệ quốc tế…, cùng với đó là sự thích ứng, đổi mới trong nội dung và phương pháp dạy và học chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn đổi mới và bảo vệ Tổ quốc được đề cao, chú trọng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: Đổi mới nội dung giáo dục tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đó là một trong những nội dung cần thiết và cấp thiết trong giai đoạn cách mạng mới.

Học thuyết Mác-Lênin là một học thuyết mở, vì thế việc nghiên cứu- giảng dạy, học tập cũng theo quan điểm mở song không phải vì thế mà cố tình hiểu sai, đánh giá sai những nguyên lý chung ấy và hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin trong đời sống xã hội, coi chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng  ngang bằng với những thứ chủ nghĩa khác, triết học khác, để nghiên cứu-giảng dạy bình đẳng với những trào lưu triết học khác. Bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin là sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa và lý luận của lịch sử nhân loại, thông qua tổng kết thực tiễn cuộc sống và phong trào đấu tranh cách mạng, cho đến nay đã được lịch sử chứng minh tính khoa học, cách mạng và những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin còn nguyên giá trị, có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Thông qua đó, tiếp tục khẳng định: chủ nghĩa Mác – Lê-nin vẫn là học thuyết khoa học nhất, cách mạng nhất, vạch ra xu thế phát triển tất yếu của thời đại mà không học thuyết nào có thể thay thế được.

Không biết ông Chánh lấy ở đâu cái thực tế là nhiều người không tin hay làm bộ tin và “đề cao chủ nghĩa Mác-Lênin là một thứ vũ khí sắc bén, độc tôn duy nhất, cho phép giải quyết tốt mọi vấn đề chính trị-kinh tế-văn hóa-văn học- giáo dục- xã hội”, hay là bản thân ông ngồi trong phòng, suy từ bụng ta ra bụng người giống như kiểu ếch ngồi đáy giếng mà phán chuyện, hay ông ta tiếp xúc nghe những kẻ cùng ý tưởng kháo nhau về điều đó để rồi tự nhận mình là đại diện cho xã hội, nói lên tiếng nói của xã hội. Nếu đã biết mình trình độ hiểu biết lý luận ít, không có tính chuyên nghiệp và chưa nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác-Lênin thì việc ông Chánh nên làm là “Quay mặt vào tường” để nghiên cứu, tìm hiểu trước đã.

Với những giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng của mình, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn luôn và sẽ có sức sống trường tồn, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động và là vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân. Nghiên cứu hoàn thiện, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai đoạn mới bên cạnh việc giảng dạy, phổ biến rộng rãi chủ nghĩa Mác-Lênin gắn với thực tiễn cuộc sống chính là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta (01-2016) tiếp tục khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Tổng kết 30 năm đổi mới, qua những thành tựu đã đạt được, Đảng ta đã rút ra một số bài học, trong đó bài học số một là “ Trong quá trình đổi mới, phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng, thậm chí sai lầm trong hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong hành động. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, đó cũng là câu trả lời đanh thép phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng: Nghiên cứu, giảng dạy và học tập, không ngừng vận dụng sáng tạo, bổ sung, hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ, trách nhiệm và nhu cầu cần thiết, cấp thiết của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nước Việt Nam “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Quang Phạm

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...