Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 3 tháng 7, 2023

NVG40 - VẠCH TRẦN BỘ MẶT THẬT CỦA NHÓM “NGƯỜI THƯỢNG VÌ CÔNG LÝ-MSFJ”

 

Theo tài liệu Cơ quan An ninh Đắk Lắk, nhóm “Người Thượng vì công lý - MSFJ” (Montagnards Stand For Justice) được thành lập vào năm 2019 bởi các đối tượng phản động: Y Phic Hdok (sinh sống tại Mỹ), Y Quynh Bdăp (sinh sống tại Thái Lan) cùng 15 đối tượng phản động, lưu vong khác.

Để hoạt động, nhóm này đã lấy cái danh mĩ miều là “thúc đẩy hòa bình và bảo vệ quyền con người của những người bị áp bức tại Tây Nguyên”, nhưng thực chất Y Quynh Bdăp và nhóm MSFJ của hắn lại thông qua trang mạng xã hội liên lạc, kích động những người thiếu hiểu biết trong nước vi phạm pháp luật để chính quyền xử lý, từ đó, thu thập, sử dụng các thông tin sai sự thật và xuyên tạc nhằm vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc và gia tăng hoạt động vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế nhằm mục đích vụ lợi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Y Phic Hdok và Y Quynh Bdăp vốn sinh ra lớn lên tại tỉnh Đắk Lắk nhưng từ nhỏ, cả hai đối tượng này đã sớm tham gia tổ chức FULRO, nhận sự chỉ đạo của số đối tượng FULRO lưu vong ở nước ngoài hoạt động tuyên truyền, phát triển lực lượng trong nước, lôi kéo kích động bà con tại các buôn làng trên địa bàn huyện Cư Kuin, huyện Krông Ana tham gia biểu tình bạo loạn đòi yêu sách thành lập “Tin lành Đêga”, “Nhà nước Đêga”.

Sau khi bị bắt và bị kết án tù giam về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” và “Hủy hoại tài sản”, đồng thời đưa ra kiểm điểm trước dân làng, những tưởng chúng sẽ chăm chỉ làm ăn nhưng Y Phic Hdok và Y Quynh Bdăp vẫn ảo tưởng không từ bỏ tư tưởng cực đoan, phản động.

Tháng 8/2018, Y Quynh Bdăp đã vượt biên sang Thái Lan, rồi tiếp tục đưa vợ, con, cháu vượt biên theo mình. Năm 2019, Y Phic Hdok cũng vượt biên sang Thái Lan để tiếp tục chống phá, tìm kiếm sự giúp đỡ của các thế lực thù địch và FULRO lưu vong để được đi Mỹ tị nạn chính trị.

Tại Thái Lan, chúng được các tổ chức phản động như “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” và các tổ chức FULRO lưu vong (MHRO, MRO,…), tổ chức phản động đội lốt tôn giáo “Tin lành đấng Christ Tây Nguyên - CHPC” hậu thuẫn nên đã tạo lập nhiều trang Facebook sử dụng tuyên truyền, xuyên tạc tình hình trong nước, tự cho mình là “đấu tranh công lý”.

Nhóm này đã câu kết với Nguyễn Đình Thắng (kẻ cầm đầu BPSOS, CAMSA ở Mỹ) lôi kéo, bày trò huấn luyện, đào tạo những người dân tộc thiểu số Tây Nguyên theo đạo Tin lành tham gia cái gọi là “Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” do đối tượng Aga ở Mỹ cầm đầu, thực chất lôi kéo họ tham gia hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá đất nước, lợi dụng vỏ bọc tôn giáo để tập hợp lực lượng, âm mưu thành lập nhà nước riêng của người dân tộc thiểu số trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên.

Khi bị chính quyền nhắc nhở, cảnh báo về sai phạm trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái phép, xử lý hành vi chống phá Nhà nước thì các đối tượng xuyên tạc chính quyền lên các báo đài nước ngoài, viết “báo cáo nhân quyền” bóp méo hiện thực…, lu loa, kích động, biến họ thành “nạn nhân tôn giáo bị đàn áp”, phục vụ cho các dự án dân quyền đấu tranh vì tự do tôn giáo mà Nguyễn Đình Thắng đã “trúng thầu” từ Bộ Ngoại giao và quỹ dân chủ Mỹ. Từ đó chúng tạo cớ cho thế lực thù địch lên giọng về giá trị “dân chủ, nhân quyền”.

Điển hình vào năm 2021, nhân việc một cựu FULRO tên Y Piêk Niê qua đời vì tuổi già và bệnh tật sau khi ra tù hơn chục năm, nhóm “Người Thượng vì công lý” giật tít có tính kích động rằng “Một tù nhân người Thượng Tây Nguyên chết vì bệnh tật khi ra tù cộng sản”, hàm ý rằng cái chết của ông này là do bệnh tật vì ở “tù cộng sản” mà ra, rồi tổ chức livestream đám tang, chia buồn như kiểu thương khóc cho một “nạn nhân của chế độ” vậy.

Hành động nhập nhèm này cho thấy bản chất cơ hội của nhóm người nhân danh đấu tranh cho “công lý”, “đức tin” của MSFJ, không ngần ngại khai thác quá khứ và hoàn cảnh vợ, các con nhỏ của Y Piêk Niê để oán thán, xuyên tạc, vu cáo chế độ nhằm chống phá Nhà nước. Dù sau khi ra tù, ông này lấy vợ và có cuộc sống bình yên tại Buôn Mbriu, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, không hề dính dáng gì đến các nhóm chống phá đất nước được điều hành từ Mỹ, Thái Lan từ chính đồng bọn cũ của ông ta.

Mới gần đây nhất, vào ngày 8/4/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định khởi tố vụ án “Phá hoại chính sách đoàn kết” xảy ra tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, khởi tố bị can đối với đối tượng Aga (đối tượng FULRO lưu vong) và khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với đối tượng Y Krếc Byă (thường gọi Ama Guôn, SN 1978, trú tại buôn Knia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn). Y Krếc Byă là đối tượng từng bị xử phạt 8 năm tù về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”.

Tuy nhiên, năm 2013 (chỉ một năm sau khi ra tù) Y Krếc Byă lại tiếp tục tham gia hoạt động cơ sở ngầm FULRO và bị cơ quan Công an phát hiện, đấu tranh, đưa ra kiểm điểm trước dân để tạo điều kiện cho Y Krếc Byă sửa chữa sai lầm. Thế nhưng, với bản chất của một tên FULRO ảo vọng quyền lực, cộng với việc bị các đối tượng FULRO lưu vong tại Mỹ, Thái Lan lôi kéo, xúi giục, Y Krếc Byă đã tham gia “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên - CHPC” do đối tượng A Ga lưu vong tại Mỹ cầm đầu, tích cực thực hiện các nhiệm vụ do các đối tượng trong MSFJ, CHPC giao.

Nhóm “Người Thượng vì công lý” đã lợi dụng, đào tạo Y Krếc Byă bằng cách ghi nhận công lao và bố trí cho “ghế” Phó Giáo Hội Trưởng CHPC để hắn cam tâm có những việc làm sai trái, phản bội lại buôn làng. Bản thân Y Krếc Byă đã tổ chức cho các đối tượng tham gia CHPC tại nhà mình, tập hợp, gửi các “bản tường trình”, “báo cáo” về tình hình tôn giáo, nhân quyền cho bọn phản động bên ngoài để xuyên tạc, phản ánh sai lệch cho các tổ chức quốc tế nhằm gây sức ép, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chúng lừa phỉnh, lôi kéo một số người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên vượt biên với hứa hẹn sẽ đưa đi Mỹ, Canada… để trục lợi nhưng lại lợi dụng việc này để vu cáo chính quyền để xảy ra tình trạng mua bán người. Tuy nhiên, khôi hài ở chỗ, trước những bằng chứng đanh thép, không thể chối cãi như vậy, nhưng nhóm “Người Thượng vì công lý” vẫn cứ rêu rao, khóc lóc kể lể trên mạng xã hội vu cáo rằng Việt Nam đàn áp dân tộc, đàn áp tôn giáo.

Có lẽ, đồng bào máu mủ trong mắt Y Quynh Bdăp, Y Phic Hdok và nhóm MSFJ chỉ là công cụ để chúng trục lợi, là thứ mà chúng sẵn sàng vứt bỏ, chối từ chỉ để nhận được những đồng USD “tài trợ” cũng như lời hứa mờ mịt về “một tương lai hạnh phúc” nơi trời Mỹ.

 

 

NVG40 - NHẬN DIỆN SỰ THẬT TỔ CHỨC FULLRO Ở TÂY NGUYÊN

 

Hai nhóm tội phạm (một nhóm 10 tên, và nhóm còn lại 30 tên) đã tấn công vào trụ sở công an và trụ sở UBND của hai xã thuộc huyện CưKuin, tỉnh Đaklak, thảm sát 4 cán bộ chiến sĩ, một chủ tịch xã, làm bị thương 2 cán bộ chiến sĩ, một bí thư xã và đặc biệt, bọn chúng đã ra quốc lộ, chặn một xe ôtô của người dân, và gây ra cái chết của hai người vô tội này. Đọc xong cái tin, mình lạnh sống lưng.

Lạnh sống lưng vì nhiều lẽ.

Có lẽ, cái lẽ đầu tiên là đập vào mắt mình vài bài viết của vài người hình như là vỗ ngực bảo là nhà báo… Lên bài với giọng điệu “hỉ hả”… Và bên cạnh đó, cũng có vài cái tút ngăn ngắn, viết kiểu “bâng quơ” của vài tinh bông, cũng ra điều rất “hả dạ” – một sự khốn nạn của những kẻ chơi trò con chữ.

Cái lẽ thứ hai, là một nỗi buồn. Nỗi buồn trỗi dậy từ một câu hát: “đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên” – cái gian lao ấy đã lấy đi máu của hàng triệu triệu người Việt, qua hàng ngàn năm… Để đến bây giờ, dù “mang tiếng” sống trong cảnh hòa bình, nhưng vẫn còn có người đổ máu.

Cưkuin là tên gọi mới của một huyện được tách ra từ huyện Krong Ana và thành phố Buôn Ma Thuộc. Địa danh này ngày xưa có tên gọi là Kim Sơn hay Giáo xứ Trung Hòa, cách sân bay Buôn Ma Thuột khoảng 8km, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 16km. Cách đây chưa đầy hai tháng, thành phố Buôn Ma Thuột khánh thành đại lộ Đông Tây dài 5km, nối thẳng trung tâm thành phố đến sân bay Buôn Ma Thuột – đại lộ Đông Tây vắt ngang trọn qua đỉnh đồi Trần Hưng Đạo.

FULRO là tên viết tắt của cụm chữ: Front Uni de Lutte des Races Opprimées (Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức), được thành lập năm 1964. Tiền thân của tổ chức này là phong trào BAJARAKA, xuất hiện năm 1958, mục tiêu của phong trào này là thành lập một liên minh các dân tộc Tây Nguyên, chống lại sự áp bức, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Jarai, M’Nông, Bana, Ê đê…). Những người đứng đầu phong trào này muốn tách khối các dân tộc thiểu số Tây Nguyên ra khỏi chế độ VNCH, thành một khu vực độc lập quay trở lại trực thuộc khối Liên hiệp Pháp. Và đương nhiên, đã bị Mỹ và chế độ ngụy quyền VNCH đàn áp. Tuy nhiên, đến năm 1964, sau cuộc đảo chính 1963, Mỹ và chế độ ngụy quyền VNCH đã “trưng dụng” và sử dụng tổ chức này như là một công cụ để “ổn định” khu vực Tây Nguyên.

Dưới bàn tay của Mỹ, ngày 20 tháng 9 năm 1964, tại Campuchia với sự chủ tọa của quốc vương Sihanouk, Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức được thành lập (tiếng Pháp: Front Uni de Lutte des Races Opprimées, gọi tắt là FULRO). Và được chia thành các nhóm:

- Mặt trận Giải phóng Cao nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP) tức FULRO Thượng - do Y Bhăm Êñuôl chỉ huy, hoạt động chủ yếu tại Mondulkiri.

- Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức FULRO Chăm - do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo, hoạt động chủ yếu tại Ninh Thuận.

- Mặt trận Giải phóng Campuchia Krom (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức FULRO Khmer Hạ - do Chau Dera làm đại diện, hoạt động chủ yếu tại đồng bằng sông Cửu Long.

- Mặt trận Giải phóng Campuchia Bắc (Front de Libération du Kampuchea Nord, FLKN) tức FULRO Khmer Thượng, hoạt động chủ yếu tại Hạ Lào.

Nói đến đây, chúng ta có thể hình dung về lịch sử hình thành, động cơ và quy mô của tổ chức này như thế nào rồi.

Quân đội, Công an và các lực lượng vũ trang vô cùng vất vả để truy quét và tiêu diệt tổ chức này. Mãi đến tận năm 1992, sau bao nhiêu nhân mạng vô tội bị giết chết, bao nhiêu liệt sĩ hy sinh trong các đợt truy quét và tiêu diệt, tổ chức này mới chính thức bị quét sạch trên lãnh thổ Việt Nam. Tại Campuchia, có 407 tên ra đầu hàng lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, và được mang sang Mỹ tị nạn chính trị (sống tập trung tại bang Colorado – Hoa Kỳ).

Những mầm mống tội ác vẫn còn đó, chúng được nuôi dưỡng bởi ai thì có lẽ đọc đến đây, người đọc cũng đã rõ…

Năm 2000, tại tiểu bang Colorado, một nhà nước tự xưng được dựng lên với tên gọi: Cộng hòa Đề Ga hay còn có tên gọi khác là: nhà nước Đề Ga tự trị - có tổng thống tự phong là Ksor Kơk. Với sự bảo trợ của Mỹ từ tài chính và vũ khí, tháng 4 năm 2004, bọn chúng đã quay về tạo nên cuộc “bạo loạn Tây Nguyên”, hiển nhiên cuộc bạo loạn này đã nhanh chóng bị dập tắt bằng cuộc đấu tranh chính trị khôn ngoan và diễn ra trong hòa bình của các lực lượng vũ trang Việt Nam.

Tại sao chúng ta lại phải chọn đường lối đấu tranh chính trị mà không phải là một cuộc “đàn áp bằng vũ lực”?

Đơn giản là, đâu đó bên ngoài kia, các thế lực bên ngoài đã chuẩn bị và chực chờ, chỉ cần một tiếng súng nổ, là họ sẽ “can thiệp hòa bình” như đã từng diễn ra tại Kosovo, Libya, Syria…

Cho nên, phàm là người nói tiếng Việt, nếu thực sự yêu sự thanh bình, hãy cố gắng nhận diện đúng các sự thật trước các “diễn biến hòa bình” mà ở đó, những kẻ ngoại bang không mong đợi ở xứ sở này một sự bình yên đúng nghĩa.

 

NVG40 - CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

             Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Điều này khẳng định giá trị lý luận, thực tiễn to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Song, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc sự thật này. Trên trang blog “Vietnamthoibao” Trần Trung Đạo có bài viết: “Một bóng ma đang ám ảnh Việt Nam”, cho rằng việc tôn thờ chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh là sai lầm, làm cho đất nước không thể phát triển được. Đây là sự xuyên tạc, bôi nhọ trắng trợn chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin là thành tựu tư tưởng, lý luận vĩ đại của nhân loại đã phơi bày bản chất sâu xa, những mâu thuẫn cố hữu tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế – xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó. Vượt lên trên mọi giới hạn về không gian và thời gian, những nguyên lý, quy luật, khái niệm, phạm trù và phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin tiếp tục là chìa khóa giải đáp những vấn đề tư tưởng, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử của nhân loại, đó là giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, mọi sự tha hóa. Chủ nghĩa Mác – Lênin có giá trị bền vững và tính thời đại bởi bản thân nó là một học thuyết phát triển và nhân văn, luôn hướng tới sự tiến bộ của xã hội loài người; là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác, một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào. Song, đó là học thuyết phát triển, học thuyết mở, nên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia của nó. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục học tập, nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta: Người ra đi tìm đường cứu nước và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành thắng lợi vang dội trong cuộc Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc mang tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại. Thực hiện bản Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã không ngừng tiến lên giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, hiện thực hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, tư tưởng của Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Giá trị lý luận, thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên vẹn, giữ vai trò quyết định trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiếp tục soi sáng những vấn đề lý luận để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa nước ta vững chắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với ý nghĩa đó, ngày 18/5/2021 Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Việc Trần Trung Đạo xuyên tạc trắng trợn chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đi ngược lại với ý chí của loài người tiến bộ trên thế giới nói chung, nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây là điều, không thể chấp nhận được cần phải lên án mạnh mẽ và đấu tranh loại bỏ.

 


 

 

 

 

 

 

 

 

NVH40 - Sự thật cái gọi là “Nhà nước Tin lành Đề Ga”

 

FULRO là tên gọi tắt theo cách ghép những chữ cái đứng đầu các từ tiếng Pháp: Front Unifie de Lutte des Races Opprimees (Mặt trận thống nhất đấu tranh của các dân tộc bị áp bức), là một tổ chức chính trị phản động có vũ trang, đã tồn tại dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua, câu kết với các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá cách mạng nước ta. Đó là tổ chức do các thế lực đế quốc nặn ra, nuôi dưỡng và chỉ đạo, nhằm mục đích chia cắt sự thống nhất đất nước, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam, ngăn chặn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Mấy năm gần đây, mặc dù đã bị ta truy quét nhiều lần, tổ chức này vẫn tồn tại lay lắt, ngoan cố chống phá cách mạng và đã gây nhiều tội ác với đồng bào Tây Nguyên.

Hiện có 5 tổ chức FULRO lưu vong ở Mỹ, trong đó, hoạt động mạnh là tổ chức Hội những người miền núi - MFI của Ksor Kơk và tổ chức Nhân quyền người Thượng - MHRO của Nay Rông. MFI (Montagnard Foundation Inc), thành lập năm 1992, tại Spartanburg, bang Nam Carolina, Hoa Kỳ, là tiền thân của tổ chức “Nhà nước Đề Ga độc lập”. Cầm đầu tổ chức là “Tổng thống” tự phong Ksor Kơk. “Nhà nước Đề Ga độc lập” được thành lập với mục đích là đấu tranh đòi lại đất Tây Nguyên, lập “Nhà nước Đề Ga” của người Tây Nguyên. Một số đối tượng FULRO, cơ sở FULRO cũ và một số đồng bào nhận thức còn mơ hồ tham gia vào tổ chức “Nhà nước Đề Ga” do chúng lập ra với quy mô lớn và bộ khung khá hoàn chỉnh.

Các tổ chức này tích cực củng cố, chuẩn bị các điều kiện để cho ra đời cái gọi là “Nhà nước Đề Ga tự trị” tại Tây Nguyên. Chúng tăng cường xây dựng cơ sở kinh tài; mở các lớp đào tạo kiến thức văn hóa cho đồng bào; tổ chức các thành viên học “Luật Đề Ga”; thu thập cờ, tài liệu, bản đồ liên quan “Nhà nước Đề Ga”. Từ nước ngoài, chúng gửi kinh phí, cờ vào trong nước, khẳng định “phong trào Đề Ga” sẽ thành công vì được nhiều nước ủng hộ. Các đối tượng cầm đầu thường xuyên tham dự các diễn đàn, các hội nghị quốc tế về nhân quyền, tôn giáo và người tị nạn nhằm kêu gọi sự hỗ trợ, giúp đỡ, liên kết của các thế lực thù địch, phản động; vận động hành lang các nước ủng hộ tài chính.

Chúng triệt để lợi dụng các văn bản pháp lý quốc tế để xuyên tạc sự thật ở Việt Nam, đặc biệt là Tuyên ngôn về quyền của người bản địa 2007 mà Nhà nước ta đã tham gia; thường xuyên thu thập về tình hình vùng đồng bào DTTS để từ đó bóp méo, xuyên tạc, làm “bằng chứng” đấu tranh với Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền; quyên tiền thuê Hội luật sư ở Washington giúp đỡ trình bày các vấn đề liên quan trước Liên hợp quốc; chuẩn bị tài liệu để tổ chức vụ kiện Việt Nam ra Tòa án Quốc tế... Chúng đã triệt để lợi dụng sự phát triển của Internet, mạng di động để liên lạc, tuyên truyền lừa bịp gây chia rẽ đoàn kết, củng cố tổ chức, lừa mị về sự thành công của tổ chức Đề Ga để củng cố niềm tin cho bọn phản động trong nước.

Khi bị thất bại trong các cuộc biểu tình, gây rối ở Tây Nguyên, chúng kích động người DTTS trốn sang Campuchia, tuyên bố cho định cư ở Mỹ nhằm tái lập “trại tị nạn” làm chỗ đứng chân, tập hợp lực lượng, gây mất ổn định lâu dài ở Tây Nguyên. Cùng với những hoạt động chống phá ngầm, chúng còn sử dụng các diễn đàn chính trị can thiệp trực tiếp vào vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên. Thông qua hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ, các đoàn lâm thời và một số người Thượng lưu vong tại Mỹ về Việt Nam thăm thân, chúng tìm cách thu thập tình hình cũng như việc thực hiện chính sách tôn giáo, dân tộc của Nhà nước ta ở Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của ta, xuyên tạc sự thật, tố cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, phân biệt đối xử với người DTTS trong các cuộc điều trần ở Quốc hội Mỹ. Đặc biệt, từ khi Thượng Nghị viện Mỹ thông qua luật HR 2431 về tự do tín ngưỡng quốc tế, các hoạt động điều tra nhằm kích động vấn đề nhân quyền trong dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên được tiến hành công khai, ráo riết hơn.

Như vậy, có thể thấy cái gọi là "Nhà nước Đề Ga", “Tin lành Đề Ga” thực chất là một biến thể của FULRO do các thế lực thù địch, phản động bên ngoài dựng lên. Âm mưu, hoạt động của chúng hiện nay là tập trung tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với các DTTS, kích động, gieo rắc tư tưởng ly khai, tự trị, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam. Đồng thời, thông qua sự chỉ đạo, chi viện về vật chất của các thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài, chúng ráo riết xây dựng, phát triển lực lượng ở trong nước, chủ trương cắm cờ FULRO, cho ra mắt “Nhà nước Đề Ga tự trị”. Tổ chức biểu tình và cao hơn là tiến hành bạo loạn chính trị, hòng tạo cớ để kẻ thù bên ngoài nhảy vào can thiệp. Đây là những vấn đề chúng ta cần nhận diện một cách đầy đủ để phòng ngừa và kịp thời đấu tranh ngăn chặn.

 

NVH40 - TÍNH CHỦ QUAN CỦA CÁI GỌI LÀ NGHỊ QUYẾT “LÊN ÁN SỰ KHỦNG KHIẾP CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”

 

Ngày 02/02/2023, Hạ viện Mỹ chính thức thông qua Nghị quyết “Lên án sự khủng khiếp của chủ nghĩa xã hội”. Đây là một nghị quyết “không mang tính ràng buộc”. Tính chủ quan của Nghị quyết thể hiện ở việc sử dụng những câu nói, trích dẫn nội dung trong tuyên bố của các vị Tổng thống Mỹ ngụy tạo “chân lý”, làm cơ sở tham chiếu đánh giá tính khoa học của một hệ thống lý luận cũng như hiện thực xã hội đã được cộng đồng nhân loại thừa nhận.

Những tuyên bố của các đời tổng thống Mỹ đều khẳng định tôn trọng quyền cá nhân. Chính quyền Mỹ đang duy trì điều đó và người dân Mỹ hiện nay đang tôn trọng, ủng hộ điều đó. Đó là chuyện của nội bộ nước Mỹ, quyền lựa chọn của đa số người dân Mỹ. Các nước khác, dù có cùng chế độ chính trị hay khác biệt về chế độ chính trị đều tôn trọng đặc điểm đó của nước Mỹ. Chưa phát hiện ra quốc gia nào trên thế giới buộc Mỹ phải thay đổi chế độ để làm điều kiện quan hệ, hợp tác. Tuy nhiên Nước Mỹ không có quyền ép buộc các dân tộc khác trên thế giới phải tuân thủ quan điểm đó của mình. Nếu nước Mỹ dùng các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa tác động trực tiếp với mục tiêu buộc quốc gia khác phải thay đổi chế độ chính trị thì đó thực chất là hành động xâm lược, nô dịch về tư tưởng, chính trị, văn hóa. Hơn nữa, việc tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không đại biểu cho lợi ích cao nhất của công nhân lao động. Bởi vì, mỗi giây phút lao động, họ đang bị chủ sử dụng lao động tước đoạt một phần giá trị sức lao động. Chính sự tước đoạt đó làm nên sự giàu có của nhà tư bản và nước Mỹ của họ. Đó không phải là mục tiêu phấn đấu tối hậu của các nước phát triển theo mô hình XHCN. Vì vậy, nội dung Nghị quyết thể hiện rõ tính chủ quan, áp đặt của Hạ viện Mỹ khi quy kết những giá trị của CNXH không giống với giá trị Mỹ và đánh giá CNXH mang tính “man rợ, tàn bạo”. Đó là thái độ rất thiếu văn minh và đi ngược lại những mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển và giá trị chung mà nhân loại đang phấn đấu, chung tay thực hiện.

NVH40 - Nhận diện một số luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đây là một trong những nội dung chính của hoạt động “diễn biến hòa bình”, của hoạt động tuyên truyền phá hoại của các thế lực thù địch những năm qua.

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch tung ra nhiều luận điệu tuyên truyền nhằm kích động quần chúng loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như phê phán Đảng ta không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo, hạn chế dân chủ. Chúng cho rằng: “Độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện đạiĐảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”. Chúng thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối lẫn chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá khứ, đặc biệt là ở lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội để chứng minh cho sự chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng, gạt Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Chúng khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo và thực hiện đường lối, chính sách của những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tha hóa, tạo ra sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng nhân dân.

Các thế lực thù địch đánh giá: Đảng Cộng sản Việt Nam đang trong giai đoạn hẫng hụt về lãnh đạo, nội bộ mất đoàn kết, bị phân hóa. Cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật kém, các chủ trương của Trung ương đã bị các địa phương triển khai sai lệch, dẫn đến gây rối loạn chính trị, trật tự xã hội. Chúng ráo riết tuyên truyền Đảng Cộng sản Việt Nam đang khủng hoảng lãnh tụ, không ai nói được ai. Chúng chủ trương vừa thúc đẩy các hoạt động chống phá ta về tổ chức, nhân sự, rồi tăng cường móc nối, xâm nhập vào nội bộ Đảng với ý đồ “gài bẫy” khống chế, chuyển hóa chế độ từ bên trong, bên trên; làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam bị đổi màu, biến chất, mất vai trò lãnh đạo,…

Theo quan điểm của các thế lực thù địch, muốn chiến thắng đối phương phải phá vỡ sự gắn bó trong tổ chức Đảng Cộng sản và giữa Đảng với nhân dân. Chúng khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để làm suy yếu, đi đến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần đây, chúng tung ra một số luận điệu vu khống, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao ở các thời kỳ nhằm đề cao người này, hạ thấp người kia để chia rẽ nội bộ, làm mất lòng tin của đảng viên, cán bộ và nhân dân. Chúng phủ định đường lối, chính sách của Đảng ta, với luận điệu: kinh tế thị trường sẽ từng bước làm thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa còn non trẻ, ốm yếu ở Việt Nam... sẽ tới một ngày Chính phủ Việt Nam chỉ còn là Cộng sản trên danh nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng để tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch một cách có hiệu quả.

 

NVE40-KIÊN ĐỊNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG BỐN KHÔNG VÀ GIỮ GÌN MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM-TRUNG QUỐC

 

Lịch sử quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc đã chứng kiến sự nỗ lực của hai Đảng, hai Nhà nước cùng nhân dân để phát triển, làm sâu sắc thêm quan hệ láng giềng, hữu nghị giữa hai bên. Song, vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, quan hệ hai nước vẫn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp, chưa được giải quyết tốt.

Đặc biệt, vấn đề chủ quyền và lợi ích trên Biển Đông là thách thức lớn nhất trong quan hệ Việt - Trung hiện nay. Trong lịch sử quan hệ hai nước, mặc dù gắn bó, sẵn sàng tương trợ lẫn nhau những lúc khó khăn, song không tránh khỏi những bất đồng liên quan đến chủ quyền, lãnh thổ. Thực tiễn cho thấy, vấn đề Biển Đông luôn là nhân tố chính, cản trở những nỗ lực vun đắp, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Đây được coi là vấn đề hết sức “nhạy cảm”, liên quan đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc nên khó tìm được sự “nhượng bộ” cần thiết trong thương lượng, giải quyết. Những “ý đồ chiến lược” của Trung Quốc đối với khu vực và thế giới gây bất lợi cho nhiều quốc gia và Việt Nam. Sự chống phá của các thế lực, đặc biệt là Mỹ trong chiến lược “kiềm tỏa” Trung Quốc đang ngày càng khoét sâu mâu thuẫn giữa các nước trong khu vực Biển Đông với Trung Quốc. Qua đó đặt ra những thách thức khó giải quyết cho Việt Nam trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông với thúc đẩy, phát triển mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ, chủ trương của Việt Nam là không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Chúng ta chủ trương không liên minh quân sự bởi đó là giải pháp hiệu quả để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam không thể dựa vào bất kỳ liên minh quân sự nào, hiệp ước quân sự nào, càng không thể trông chờ, ỷ lại vào nước ngoài, mà phải bằng chính bản lĩnh, trí tuệ, thực lực, bằng đoàn kết đồng lòng của triệu triệu con người Việt Nam. Chúng ta không đứng về bên nào, chúng ta bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Hiến chương Liên hợp quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đồng thời, Việt Nam không chấp nhận để nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, hoặc là sử dụng một phần lãnh thổ Việt Nam để phát động chiến tranh xâm lược nước thứ ba. Lịch sử hiện đại cho chúng ta thấy rõ, nếu có căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình, dễ biến Tổ quốc ta thành mục tiêu tiến công của các thế lực thù địch, ít nhất thì cũng khiến đất nước ta khó tránh khỏi bị lôi kéo vào xung đột, chiến tranh giữa các nước.

Sử dụng vũ lực và liên minh quân sự không phải là phương thức tối ưu trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chính đường lối quốc phòng với mục đích tự vệ, hòa bình, chính nghĩa, phù hợp với quyền cơ bản của các quốc gia, dân tộc theo nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc mới là điều mà các quốc gia, dân tộc tiến bộ đều đang hướng tới. Việt Nam kiên quyết đấu tranh, kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật và luật pháp quốc tế; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không phải là Việt Nam tự “trói tay” mình, trái lại, nó có tác dụng “cởi trói” cho chúng ta, cả trong tư duy và hành động để ta có thể suy nghĩ và hành động một cách độc lập, sáng tạo và không bị chi phối, áp đặt bởi yếu tố bên ngoài, tức là không bị người khác trói buộc mình.

Chúng ta mở rộng quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy của bạn bè quốc tế, không hề mâu thuẫn với việc chúng ta không tham gia liên minh quân sự, không liên kết nước này để chống nước kia. Thực tế thế giới hiện đại cho thấy rõ: Tuy có quan hệ thân thiết với nhau, thậm chí liên minh quân sự với nhau, nhưng khi gặp vấn đề liên quan tới lợi ích quốc gia, dân tộc của nước lớn, họ sẽ xử lý quan hệ với các đồng minh theo triết lý ưu tiên lợi ích của họ là trước hết, là trên hết.

Trên thế giới chưa bao giờ có nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác. Chính vì vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, dù là thời bình hay thời chiến, không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ giúp của nước ngoài hoặc tham gia liên minh quân sự với nước khác. Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là mở rộng quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy của bạn bè quốc tế, đồng thời phải tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, xây dựng thực lực sức mạnh tổng hợp quốc gia, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế. Việt Nam không chọn bên, không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình. Chính vì vậy, chúng ta không hề mâu thuẫn khi một mặt mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác chúng ta không tham gia liên minh quân sự, không liên kết nước này để chống nước kia.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rất rõ rằng: “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Hiện nay quan hệ ngoại giao nhà nước Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên toàn thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng của ta ngày càng rộng mở, chúng ta có quan hệ quốc phòng với trên 80 quốc gia thuộc cả 5 châu lục, đặc biệt chúng ta có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là những quốc gia có vai trò, có ảnh hưởng chủ chốt trong duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Điều đó chứng tỏ chúng ta chẳng bị ai cô lập, trái lại, còn mở rộng không ngừng quan hệ đối ngoại. Điều đó là cơ hội thuận lợi để chúng ta ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong mối quan hệ Việt - Trung hiện nay cần thống nhất về nhận thức, xác định rõ tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cần xác định, đây là mối quan hệ “đặc biệt” cần ưu tiên giải quyết trong các trường hợp xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí xung đột. Với sự gắn bó chặt chẽ trong lịch sử và trong hiện tại giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân, có thể khẳng định đây là mối quan hệ không thể tách rời.

Mỗi chúng ta cần tránh những tư tưởng lệch lạc, dao động, thiếu nhạy bén, bị các lực lượng thù địch lôi kéo, tác động, ảnh hưởng đến nhận thức chung. Thống nhất hành động từ trung ương đến địa phương, các bộ, ngành cần đoàn kết, đặt lợi ích dân tộc lên trước hết, trên hết trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Giữ vững độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích giữa đôi bên. Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc về kinh tế, chính trị, quân sự… trong những năm gần đây cho thấy, quan hệ Việt - Trung không dừng lại ở mối quan hệ láng giềng, đồng chí, anh em, đối tác mà còn là mối quan hệ với nước lớn, khu vực kinh tế lớn và cường quốc quân sự. Do đó, cần phát huy sự khéo léo, linh hoạt, tích cực, chủ động tranh thủ đàm phán, giải quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hòa bình. Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chống lại mọi sự can thiệp, thao túng từ các thế lực bên ngoài.

Tiếp tục chính sách “cân bằng linh hoạt” trong quan hệ với các nước lớn, mang lại lợi ích tối đa cho dân tộc. Đề phòng mọi sự hợp tác của bên ngoài, gây tổn hại đến chế độ và lợi ích của dân tộc. Cần tỉnh táo, nâng cao sức đề kháng trong việc thu hút đầu tư, vay vốn để phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Xây dựng “niềm tin chiến lược”, thúc đẩy việc ký kết Hiệp ước Láng giềng Hữu nghị với Trung Quốc. Xây dựng “niềm tin chiến lược” là nói đến sự tin cậy, thấu hiểu lẫn nhau, sự chuyển hóa từ những tuyên bố thành những hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả giữa hai bên.

Về phía Trung Quốc, cần có sự tôn trọng lợi ích trong hợp tác kinh tế, chính trị, quân sự đối với Việt Nam. Đảm bảo thống nhất thực hiện những cam kết quốc tế, tôn trọng luật pháp quốc tế, tuân thủ nguyên tắc đã tuyên bố giữa các bên. Về phía Việt Nam, thống nhất và kiên quyết trong hành động quốc tế. Giữ vững an ninh - quốc phòng, ổn định tư tưởng trong cán bộ và nhân dân, đầu tư hơn nữa cho quan hệ hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực. Kiên trì, chủ động trong việc đàm phán, giải quyết bất đồng liên quan đến chủ quyền và lợi ích quốc gia. Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong xử lý các quan hệ quốc tế./.

 

NVE40- LẠI NHỮNG LUẬN ĐIỆU VU CÁO NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 

Trong một thông cáo phát đi ngày 8/6/2023 (một ngày trước cuộc đối thoại nhân quyền Liên hiệp châu Âu - Việt Nam tại Hà Nội), tổ chức HRW đã vu cáo rồi lấy cớ kêu gọi châu Âu gây áp lực để buộc Việt Nam chấm dứt các hành động “vi phạm nhân quyền một cách có hệ thống”. Trước đó, ngày 26/5/2023, tổ chức này đã gửi đến Liên hiệp châu Âu một “tờ trình” (submission) về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, yêu cầu EU gây sức ép để chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho những người đang bị giam giữ vì lý do chính trị. Tổ chức này còn lên tiếng đòi sửa đổi hoặc hủy bỏ một số điều khoản trong Bộ luật Hình sự mà họ cho rằng “thường được viện dẫn để đàn áp các quyền dân sự và chính trị, hạn chế quyền tự do đi lại đối với các nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ”!

Tổ chức HRW (Human Rights Watch) được thành lập năm 1988 trên cơ sở hợp nhất tổ chức Helsinki Watch (do Robert L.Bernstein thành lập năm 1978 với mục đích giám sát Liên Xô bằng cách thu thập tư liệu liên quan tới việc Liên Xô thực hiện quy ước của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE), hỗ trợ các nhóm bảo vệ nhân quyền tại nước này) với một số tổ chức quốc tế khác có cùng tôn chỉ, mục đích nghiên cứu và cổ vũ cho phát triển nhân quyền. Nói là chuyên nghiên cứu và cổ vũ cho nhân quyền nhưng nhìn vào những hoạt động của HRW cho thấy, lời nói không đi đôi với việc làm, ngày càng xa rời, thậm chí đi ngược tôn chỉ, mục đích. Thực tế đó cho thấy, mặc dù mang danh nghĩa là tổ chức hoạt động về nhân quyền nhưng hoạt động của HRW đều thể hiện ý đồ, động cơ chính trị. Nhìn vào các hoạt động của tổ chức này cho thấy sự bất hợp lý và ý đồ bôi nhọ, hạ uy tín, hình ảnh của Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Một tổ chức không hiện diện ở Việt Nam, không nắm được tình hình thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam song lại tự cho mình quyền phán xét về nhân quyền. Riêng điểm này đã thấy sự suy diễn, áp đặt từ các thông tin mà tổ chức này công bố và nguồn thông tin HRW có được thực chất là do các tổ chức, cá nhân chống phá Việt Nam cung cấp nhằm tạo cớ bôi nhọ, chống phá.

Thực tế cho thấy ngay sau khi Việt Nam là thành viên của LHQ (năm 1977), vào những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Vào những năm 1981, 1982 và 1983, Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con người, bao gồm: Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng; Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác A-pac-thai; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội phạm chiến tranh và tội phạm chống lại nhân loại; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW).

Tính đến hết năm 2022, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên các công ước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước. Điều này là quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.

Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con người khi dành trọn vẹn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; cùng với các luật, bộ luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này không chỉ xác lập cơ sở pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã hội) mà còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng cao tinh thần trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người đã được Hiến pháp quy định là Nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3 và khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013).

Một trong những thành tựu nổi bật về nhân quyền là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 100 chính sách liên quan đến việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống và bảo đảm an sinh cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách đó, tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019). Cả nước hiện có gần 3 triệu người nghèo, người yếu thế được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Đặc biệt, phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau” trong những năm qua đã nhận được sự hưởng ứng sâu rộng, hiệu quả của toàn xã hội. Từ một nước lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn 70 năm huy động sức dân, đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.

Ngày 11/10/2022, Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào Hội đồng nhân quyền LHQ, lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016. Lá phiếu của mỗi quốc gia bầu chọn Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ là một trong những minh chứng rõ ràng nhất và là sự khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế trong đảm bảo quyền con người. Sự ghi nhận của quốc tế không chỉ những đóng góp của chúng ta trong thúc đẩy quyền con người trên toàn cầu mà trước hết là sự ghi nhận đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm các quyền cơ bản của con người ở ngay trong nước.

Theo đánh giá của Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) về Phát triển con người toàn cầu 2021-2022, ngay cả trong giai đoạn khó khăn nhất của đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn thực hiện tốt việc đảm bảo quyền con người. Chỉ số phát triển con người tăng 2 bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên thứ 115 năm 2021. Về chỉ số phát triển giới, Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia, nằm trong nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất toàn cầu. Với những thành tựu và kinh nghiệm thực tế có được sẽ là cơ sở để Việt Nam tiếp tục thể hiện trách nhiệm, góp phần thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở khu vực và quốc tế.

Vì vậy, dù tổ chức HRW hay một số tổ chức khác có hành động vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, vu cáo đàn áp mạng xã hội, đàn áp tôn giáo, không lo cho dân, bỏ mặc dân… thì chính những thành tựu về nhân quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm được là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc./.

 

NVE40-CẢNH GIÁC ÂM MƯU CỦA TỔ CHỨC FULRO VÀ VẤN ĐỀ ĐAK LAK

 

            Không nghi ngờ gì nữa, vụ khủng bố đẫm máu vào trụ sở Công an 2 xã ở huyện Cư Kuin (tỉnh Đak Lak) và giết người vô cớ mà nhóm đối tượng thực hiện rạng sáng 11-6-2023 do bọn phản động giật dây, không phải bức xúc cá nhân. Hành vi manh động tàn ác là cách làm quen thuộc của tổ chức FULRO gần 60 năm trước đến nay. Đã có không ít dân lành Tây Nguyên chết oan uổng bởi sự tàn ác của bọn phản động này, nhất là những năm 1975 đến 1992 khi FULRO được thế lực chống phá Việt Nam dung dưỡng trong những cánh rừng ở tỉnh Mondulkiri, Campuchia.

            Cần nói qua về tổ chức này. Ngày 20-9-1964, dưới sự chủ tọa của Quốc vương Campuchia Sihanouk, “Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức” đã thành lập (gọi tắt là FULRO). Được một số thế lực chống phá Việt Nam tiếp sức, nhóm này ẩn náu ở tỉnh Mondulkiri, giáp biên giới với Đak Lak để dễ cơ động phá hoại nước ta.

            Sau khi miền Nam giải phóng (30-4-1975), chúng liên tục quấy nhiễu Tây Nguyên. Sự đấu tranh không khoan nhượng của đồng bào và chính quyền các cấp, cộng với những lời hứa của các ông chủ nước ngoài không thành hiện thực nên tổ chức này dần tan rã. Năm 1992, số tàn binh FULRO hơn 400 người được bảo trợ, đưa ra nước ngoài, hòng tính kế lâu dài chống phá Việt Nam.

            Sang phương Tây, kết hợp với một số tổ chức phản động sẵn có hà hơi tiếp sức, chúng sử dụng thông tin liên lạc lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia một số tổ chức nhân danh tôn giáo. Đấy là “Tin lành Đê ga”, tà đạo “Hà Mòn”, “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”… Chúng cho rằng tôn giáo chính thống được cả thế giới công nhận, do Nhà nước ta cho phép hoạt động là “tôn giáo quốc doanh” không đáng tin cậy, phải là “hệ phái” do các phần tử này đẻ ra mới đáng tin tưởng. Nhưng thử xem “đấng cứu thế” lập ra tổ chức này là ai? Tà đạo “Hà Mòn” do Y Gyin (ở làng Kơ Tu, xã Hà Mòn, huyện Đak Hà, tỉnh Kon Tum) “độ chế” cuối năm 1999. Y Gyin là con chiên của Thiên chúa giáo nhưng hành nghề thầy mo thầy cúng ở làng Kơ Tu (danh phận thường do nam giới đảm nhận).

            Năm 1999, khi hồ thủy điện Plei Krông ngập nước, làng Kơ Tu di chuyển đi nơi khác tái định cư, đời sống dân làng thay đổi, biết nghề thầy cúng hết đất sống, Y Gyin nói với người bổn đạo rằng mình được Đức mẹ hiện hình trao sứ mệnh truyền giáo, đạo riêng của Y Gyin. Lôi kéo giáo dân từ bỏ sinh hoạt đạo Công giáo cùng các phong tục tập quán truyền thống để theo tà đạo “Hà Mòn”, vốn đã bị FULRO thao túng. Tổ chức này nhân danh tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, lúc đầu một số người nhẹ dạ tin theo, dần dần thấy rõ chân tướng nên đến nay cơ bản đã tan rã.

            Một đối tượng cốt cán phản động khác là A Ga, tự phong là mục sư điều hành “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”, tháng 4-2023 đã bị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đak Lak khởi tố về hành vi “Phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc”. A Ga vốn là đối tượng theo “Tin lành Đê ga”, sau khi vượt biên sang Thái Lan, được bảo lãnh sang Mỹ năm 2018. Năm 2019, nội bộ mâu thuẫn, A Ga đổi tên Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam lập năm 2017 thành “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”, mục đích là dễ lôi kéo các dân tộc Tây Nguyên chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, cách mà FULRO vẫn làm xưa nay.

            Hành vi manh động, tàn sát cán bộ, chiến sĩ Công an, giết thường dân, đập phá tài sản ở huyện Cư Kuin (tỉnh Đak Lak) ngày 11-6, người có lương tri ở thế giới văn minh không ai chấp nhận. Vậy mà một tờ báo lớn nước ngoài dẫn ý kiến một vị có chức sắc của tổ chức gọi là nhân quyền rằng: “Các nỗ lực có chủ đích của Việt Nam nhằm cô lập và tách các khu vực cao nguyên này cùng với người dân sinh sống ở đó khỏi sự tiếp xúc với cộng đồng quốc tế là một phần nguyên nhân dẫn đến sự cố như thế này. Đằng sau tấm màn bí mật mà Việt Nam phủ lên vùng cao nguyên, Chính phủ vi phạm nghiêm trọng các quyền, khước từ tự do tôn giáo và tín ngưỡng, chiếm đoạt đất đai các dân tộc bản địa và cố gắng cưỡng ép đồng hóa vào văn hóa, ngôn ngữ và xã hội dân tộc Kinh vốn ở thế áp đảo. Dù tổ chức theo dõi nhân quyền không bao giờ tán thành bạo lực, nhưng dễ hiểu tại sao người dân địa phương tức giận với Chính phủ Việt Nam và các chính sách đàn áp mà chính phủ này áp dụng”.

            Dân gian Việt Nam có câu “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Đọc những lời bình phẩm kiểu “nghe hóng nói hớt” này, những người sống ở Tây Nguyên, đã từng đến Tây Nguyên, nghĩ ông ấy “ếch ngồi đáy giếng”. Nếu khước từ tự do tôn giáo và tín ngưỡng thì làm sao Tây Nguyên có hàng triệu người theo các tôn giáo khác nhau; nhà thờ, nhà nguyện, chùa chiền mọc khắp nơi như thế? Chỉ riêng Gia Lai có 422.000 đồng bào theo tôn giáo, chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh (gồm 5 tôn giáo: Phật giáo 101.200 phật tử, trong đó, người dân tộc thiểu số hơn 2.000 phật tử; Công giáo 163.100 giáo dân, trong đó, người dân tộc thiểu số 90.000 giáo dân; Tin lành 154.951 tín đồ, trong đó, người dân tộc thiểu số 153.380 tín đồ…). Cơ sở thờ tự các tôn giáo toàn tỉnh Gia Lai gần 250 địa điểm. Còn cho rằng cô lập và tách Tây Nguyên khỏi cộng đồng quốc tế hẳn vị này không hiểu biết về công nghệ thông tin, không có kiến thức thực tế Tây Nguyên ngày nay!

            Xóa đói giảm nghèo cho người dân các dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng, cả nước nói chung được Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, trở thành một trong những chương trình mục tiêu quốc gia. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong xã hội ngày càng giảm. Nếu sau năm 1975, Gia Lai có trên 90% hộ dân nghèo đói thì nay cơ bản đã không còn hộ đói. Số hộ nghèo theo chuẩn đa chiều toàn tỉnh còn 38.550 hộ (chiếm 10,06%), giảm 7.188 hộ so với năm 2021. Đưa ra những con số này để thấy rằng chính quyền các cấp luôn quan tâm, chăm lo đời sống cho người dân, sự thay đổi chuyển biến từng ngày, hạ tầng nông thôn, bộ mặt các buôn làng khác xa những luận điệu mà các đối tượng phản động rêu rao.

            Xin miễn bàn đến các ý kiến lạc lõng trên vài tài khoản Facebook, blog cá nhân của một số đối tượng bất mãn thời cuộc, mưu đồ hoang tưởng về giấc mơ úa tàn theo bọn phản động. Hầu hết người dân Tây Nguyên đoàn kết, gắn bó nhau, tương thân, tương ái cùng phát triển. Trình độ dân trí, đời sống văn minh của người dân là thực tế không thể chối bỏ. Dù ở bất kỳ đâu hay trên quê hương, bất kỳ chế độ xã hội nào, phải lao động mới thụ hưởng thành quả. Chỉ những thanh niên lười nhác, ham chơi mới dễ tin có người trả tiền sau những hành động giết người, hủy hoại tài sản, không làm mà sẽ có trăm triệu đồng, có nhà cửa do người khác làm ra.

            FULRO là tổ chức phản động, ngay từ khi ra đời đã sử dụng thủ đoạn dụ dỗ, lừa phỉnh, khủng bố đẫm máu để tồn tại. Những hành vi đi ngược lại thế giới văn minh loài người ấy chỉ lường gạt được một số kẻ nhẹ dạ, cả tin nhưng sớm muộn gì cũng bị vạch trần. Cùng với việc nhân danh tôn giáo để làm chính trị, các đối tượng phản động thường lợi dụng việc tranh chấp đất đai, khuếch đại những mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền địa phương hoặc giữa đồng bào Kinh với đồng bào dân tộc thiểu số. Thổi phồng, bóp méo sự thật rồi chụp mũ, quy kết thành vấn đề lớn, lấy cái cá biệt làm thành cái phổ biến.

            Việc thông tin sai lệch và xuyên tạc như thế khiến cho một số đối tượng bên ngoài, chưa từng đến Tây Nguyên nhầm tưởng đa số người dân ở đây kham khổ, bị bức hại, thiếu tự do tôn giáo. Kỳ thực, nếu so sánh giữa một nhóm vài chục đến trăm đối tượng tham gia các tổ chức này với tổng số vài triệu bà con các dân tộc Tây Nguyên đang ngày càng ấm no, hạnh phúc mới thấy sự lạc lõng của các nhóm chống phá, mới rõ luận điệu phản động của các tổ chức này./.

 

NVD40 - Bác bỏ luận điệu vu cáo Việt Nam đàn áp “tự do báo chí”

 

Như đã trở thành quy luật, chúng ta có thể nhận biết vào các dịp ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), một số cá nhân, tổ chức, đài báo tiếng Việt ở nước ngoài có quan điểm, tư tưởng chống phá Việt Nam như Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ), Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ngôi nhà tự do (Freedom House), Đài Á châu tự do (RFA)... lại đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí”.

Trong các bản tường trình hay báo cáo và các bài viết vu cáo Việt Nam đàn áp tự do báo chí, bắt, giam giữ các nhà báo được một số cá nhân, tổ chức không có thiện chí đăng tải trong thời gian qua, những cái tên trong “Hội nhà báo độc lập” như Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn hay các đối tượng trong nhóm “Báo sạch” như Trương Châu Hữu Danh được nhắc đến rất nhiều.

Dưới vỏ bọc của tổ chức “Hội Nhà báo độc lập”, các đối tượng trên đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung tuyên truyền, phỉ bảng chính quyền nhân dân, bôi nhọ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bản án 15 năm tù giam, 3 năm quản chế tại địa phương đối với Phạm Chí Dũng; 11 năm tù giam, 3 năm quản chế tại địa phương đối với Nguyễn Tường Thụy; 11 năm tù giam, 3 năm quản chế đối với Lê Hữu Minh Tuấn cùng về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” được TAND thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt tại phiên tòa sơ thẩm ngày 5-1-2021 là thích đáng cho những người coi thường pháp luật, chống phá đất nước. 

Đất nước Việt Nam chúng ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do báo chí của mọi công dân. Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định “người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện”. Các bản Hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí.

Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam, như Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017; Luật Báo chí năm 2016...

Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa “ý Đảng, lòng dân”, tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

Chúng ta khuyến khích tự do báo chí vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Và lẽ tất nhiên, chúng ta không thể chấp nhận việc lợi dụng tự do báo chí, tự do Internet, tự do ngôn luận để gây mất ổn định, chống lại Tổ quốc và dân tộc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của công dân.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...