Vừa
qua, trên một số trang mạng nước ngoài, một số trang phản độngcó một số bài
viết đưa ra những thông tin xuyên tạc về một số sự kiện diễn ra trong thời gian
qua, công kích vào những vụ việc mà cơ quan bảo vệ pháp luật đã, đang điều tra,
xử lý liên quan một số đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận – báo chí để viết bài
chống phá Nhà nước, nhân dân, hàm ý phê phán Việt Nam không có tự do báo chí,
tự do ngôn luận và bôi nhọ các lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trong đó điển hình
là bài viết “ Bịt miệng hết thảy! ” được
đăng trên Bán nguyệt san TDNL số 289.
Thực
tế, bài biết này đã xuyên tạc các diễn biến quá trình sử lý vi phạm của công ty
gang thép Hưng Nghiệp Formosa tại Vũng Áng, Hà Tĩnh, đặc biệt là xuyên tạc quyền
tự do ngôn luận, báo chí và tự do Internet để vu cáo Việt Nam là “chế độ độc
tài toàn trị”; “Việt Nam vi phạm các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam đã ký kết”, “Việt Nam kiểm soát và kiểm duyệt gắt gao báo chí, tự do
Internet”; Việt Nam “bắt bớ nhiều blogger”; “bịt miệng những người… yêu nước”.
Vậy thực chất quyền tự do ngôn luận báo chí ở nước ta như thế nào? Để hiểu rõ
vấn đề này tôi xin đưa ra một số vấn đề về quyền tự do ngôn luận, báo chí trong
các công ước quốc tế và trong Hiến pháp,
pháp luật Việt Nam;thực tế sự phát triến báo chí Việt Nam những năm qua và quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với báo chí để mọi người xuy ngẫm và nhận
định.
Trước hết, quyền tư do ngôn luận, báo chí
trong các công ước quốc tế và trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam như thế nào?
Trong
các văn kiện quan trọng nhất về QCN, trong đó có “Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị” năm 1966, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đều được quy
định rõ ràng. Tuy nhiên, những quyền này không phải là quyền tuyệt đối mà là
một quyền bị hạn chế. Khoản 3, Điều 19, Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966 ghi: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều
này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc hưởng thụ
quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định (những hạn chế này phải
được quy định trong pháp luật) để tôn trọng
các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công
cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội. Trong Hiến pháp Việt Nam 2013, quyền tự
do ngôn luận, báo chí đã được quy định tương thích với Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định” (Điều 25).Đồng thời, những quy định trong Luật
Báo chí về quyền tự do ngôn luận của công dân; về nghĩa vụ của cơ quan báo chí
hoàn toàn tương thích với các văn kiện quốc tế về QCN.
Thứ hai, thực tế sự phát triến báo chí Việt
Nam như thế nào?
Sự phát triển của báo chí Việt Nam ngày nay
cho thấy những quyền nói trên đã được bảo đảm không chỉ trong luật mà còn
trong thực tế.Đến nay, Việt Nam đã có có 859 cơ quan báo chí in; 135 cơ quan
báo điện tử; 258 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí; 67
đài phát thanh, truyền hình.Hiện nay, không chỉ người dân Việt Nam mà cư dân
nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam có đầy đủ thông tin từ những hãng
thông tấn báo chí lớn. Hiện ở Việt Nam có tới 75 kênh truyền hình nước ngoài
“online”, trong đó có các kênh lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia
Network, KBS, Bloomberg...Có hơn 20 cơ quan báo chí nước ngoài đã có phóng
viên thường trú tại Việt Nam, nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước
ngoài được phát hành rộng rãi. Qua Internet, người dân Việt Nam có thể tiếp
cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới,
như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times...Nhiều
chuyên gia đánh giá Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển Internet hàng
đầu khu vực, đặc biệt là mạng Facebook. Theo cơ quan thống kê của Facebook,
hiện tại Việt Nam có 35 triệu người, bằng 1/3 dân số (92 triệu người) sở hữu
tài khoản Facebook. Trong đó, 21 triệu người truy cập hằng ngày thông qua
thiết bị di động. Được biết nhiều cơ quan, tổ chức và công chức Việt Nam đã
sử dụng mạng Facebook để trực tiếp liên hệ
với người dân… Một cơ quan quốc tế về Internet đánh giá Việt Nam hiện là quốc
gia có lượng người dùng Internet lớn thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á.
|
Thứ ba, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối
với báo chí như thế nào?
Trong
một lần tiếp xúc với cử tri Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng,
sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, rất nguy hiểm và hậu quả khôn lường. Về giải pháp,
Tổng Bí thư nêu rõ “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng quy chế lập
pháp”. Thực tế cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn khuyến khích báo
giới tham gia trận chiến chống tham nhũng và hơn nữa còn xem đây là một lực
lượng chống tham nhũng có hiệu quả cao. Nhiều vụ việc tham nhũng, do giới báo
chí phát hiện và Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu điều tra, xử lý.Chẳng hạn vụ
Trịnh Xuân Thanh mở đầu từ thông tin báo chí mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
yêu cầu cấp ủy và cơ quan chức năng của Nhà nước vào cuộc. Sau đó, báo chí cũng
nêu vấn đề tài sản “khủng” không rõ ràng về “nguồn gốc” của bà Thứ trưởng Bộ
Công Thương đã dẫn đến các cơ quan chức năng và Bộ Công Thương xác minh...
Không
có bất cứ chế độ xã hội hiện đại nào ngày nay lại không bảo vệ quyền tự do ngôn
luận báo chí. Đối với Đảng và Nhà nước ta thì quyền tự do ngôn luận, báo chí
không chỉ là quyền cần phải bảo đảm hơn nữa còn được xem là một động lực cho sự
phát triển của xã hội.Cũng giống như các nước khác trên thế giới, Việt Nam cũng
đề ra những quy định pháp luật để hạn chế và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, tiêu biểu như: Điều 79, 88, 258 BLHS;
Điều 6, 10, 28 Luật Báo chí; Điều 9, Nghị định 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ “về
quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet”… Việc trong thời gian gần đây,
cơ quan chức năng có những hình thức xử lý đối với các cá nhân như Nguyễn Văn
Đài, Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển, Lê Thu Hà, Phạm Văn
Trội, Trần Thị Xuân như bài viết bịt miệng hết thảy đã nêu… về hành vi lợi dụng
quyền tự do cá nhân nhằm xâm hại đến lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân,
cơ quan, nhà nước đã cho thấy tính nghiêm minh của pháp luật.
Rõ
ràng, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam là không thể phủ nhận,
xuyên tạc. Và những tổ chức, cá nhân cố tình lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận,
tự do báo chí để xâm hại đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân cần phải bị lên án và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp
luật. Đây là lẽ đương nhiên, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét