Theo Đại từ điển tiếng Việt, bảo thủ được hiểu là “duy trì
cái cũ, cái hiện tồn, không muốn tiếp nhận cái mới”. Còn theo cách hiểu thông
thường, bảo thủ là duy trì cái cũ, bảo vệ cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu;
không chịu tiếp thu cái mới, cái hay, cái tiến bộ, chống lại những tư duy mới,
hành động mới trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội… Trên
thực tế những biểu hiện của tư tưởng bảo thủ được thể hiện, bộc lộ dưới rất nhiều
dạng, nhiều khía cạnh. Có những biểu hiện chỉ thoáng qua người ta đã biết,
nhưng có những biểu hiện không phải ai cũng dễ nhận ra, do đó việc nhận diện
đúng tư tưởng bảo thủ để đấu tranh khắc phục là việc làm cần thiết.
Danh ngôn có câu: “Một trí óc bảo thủ là một trí óc đang chết
dần”. Tác hại mà tư tưởng bảo thủ gây ra với mỗi tập thể, mỗi xã hội là rất rõ
ràng. Tác hại của tư tưởng bảo thủ sẽ càng lớn khi nó được áp đặt vào người
khác, áp đặt vào tập thể. Do đó sẽ rất nguy hại nếu người mang tư tưởng bảo thủ
giữ chức vụ cao, nhất là những người giữ vai trò chủ trì, chủ chốt ở từng cơ
quan, đơn vị, địa phương. Chuyện kể rằng có một công ty nọ chuyên sản xuất hàng
may mặc xuất khẩu, công ty phát triển khá nhanh do thường xuyên đầu tư hiện đại
máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, đổi mới mẫu sản phẩm, ký được nhiều hợp đồng
với nhiều nước trên thế giới… Sau những thành công ấy, giám đốc công ty hả hê
và càng ngày càng cảm thấy thoã mãn với sự nghiệp của mình. Ông ta cho rằng mẫu
mã trước đây đã khẳng định được vị trí, tìm được chỗ đứng trong khách hàng nên
không cần phải thay đổi nữa, chỉ cần duy trì mẫu mã cũ cũng đủ sức phát triển…
Thực chất đó chính là biểu hiện của tư tưởng bảo thủ và hệ quả đã thấy rõ, công
ty của ông ta dần dần bị tụt hậu, không theo kịp sự phát triển của thời đại,
hàng hóa của công ty trở thành lỗi thời, lạc hậu, không ký được hợp đồng, khách
hàng cũng mất dần; các đối thủ cạnh tranh vượt lên. Chẳng bao lâu công ty may mặc
của ông giám đốc nọ đã bị phá sản…
Từ câu chuyện trên, suy rộng ra cho chúng ta thấy tính chất
nguy hại của tư tưởng bảo thủ đối với sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ những
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng bảo thủ, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến việc đấu tranh ngăn
chặn tư tưởng bảo thủ. Trong Thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên (nay là xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), ngày 13-2-1962, khi đề cập đến công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay
người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ
dám làm”. Trong nhiều bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích rõ
tác hại của tư tưởng bảo thủ. Người ví nó như sợ dây trói buộc, ngăn cản sự tiến
bộ của con người, ngăn cản sự phát triển của tập thể.
Trên thực tế vẫn có rất nhiều người đang cố thủ trong các vỏ
bao bọc của lề thói cũ, tư duy và chủ nghĩa kinh nghiệm. Vấn đề này cũng đã được
Đảng ta chỉ rõ trong nhiều văn kiện. Ngoài những yếu tố khách quan như tàn dư của
chế độ phong kiến, thực dân; ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp một thời;
là sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên… chúng ta cần phải thấy một trong những
nguyên nhân chủ quan dẫn đến căn bệnh bảo thủ là do nhận thức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Do chưa nhận thức rõ vấn đề và những
đòi hỏi từ thực tế nên chúng ta đã chậm đổi mới trong cả tư duy và hành động;
giáo dục và đào tạo không bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại… Từ thực
trạng tình hình, Đảng ta đã nhận rõ đổi mới tư duy là quy luật tất yếu của cách
mạng, của công cuộc đổi mới. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Đảng ta khẳng định rằng: “Chỉ có đổi mới tư duy thì mới thấy đúng và thấy hết
sự thật, thấy hết những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”…
Chính sự quyết tâm đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất
nước mà chúng ta có được những bước tiến dài như ngày hôm nay. Có thể khẳng định,
hơn ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta.
Trước những đòi hỏi mới của tình hình, nhất là ở thời Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, cái mới, cái tiến bộ không ngừng nảy sinh phủ định cái
cũ, cái lạc hậu và chính sự ra đời của cái mới, sự triệt tiêu của cái cũ giúp cuộc
sống của chúng ta không ngừng vận động, phát triển, thì cuộc đấu tranh ngăn chặn
và đẩy lùi tư tưởng bảo thủ, không ngừng đổi mới, sáng tạo càng trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Phải biết rằng tình hình
khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm
sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của
ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình
hình, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước… Không
chịu tự phê bình, không chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”(*). Tuy
nhiên, đổi mới không có nghĩa là chúng ta phủ định sạch trơn cái ra đời trước,
kinh nghiệm của những người đi trước. Nhưng nếu chúng ta cứ bình chân nằm ôm
khư khư đống kinh nghiệm ấy mà không tìm tòi, đổi mới, sáng tạo thì nhất định
chúng ta sẽ tụt hậu, đặc biệt trong xã hội hiện đại, khoa học, công nghệ phát
triển như vũ bão, tri thức mới không ngừng ra đời như hiện nay.
Do vậy, để đẩy lùi
căn bệnh bảo thủ, chúng ta cần nâng cao trình độ dân trí. Muốn nâng cao trình độ
nhận thức, nâng cao dân trí thì không có cách nào khác là phải đầu tư cho giáo
dục và đào tạo, hay nói cách khác là đầu tư cho con người. Trình độ nhận thức của
cán bộ, đảng viên, trình độ dân trí được nâng cao, sẽ giúp chúng ta từng bước hạn
chế và đi đến xóa bỏ được tư tưởng bảo thủ, trì trệ cả trong tư duy và hành động.
Tư tưởng bảo thủ rất nguy hiểm, nó làm cho xã hội chậm phát triển; bởi bảo thủ là dậm chân tại chố, trong khi tiến bộ xã hội phát triển không ngừng
Trả lờiXóaBạn nói rất chính xác, tôi cũng nghĩ như bạn
Xóa