Cuối
thế kỷ 19, với sự hèn nhát của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, nước ta rơi
vào tay đế quốc Pháp. Dân tộc Việt Nam từng là chủ nhân của một nước độc lập có
hàng ngàn năm văn hiến đã trở thành một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến. Cả
dân tộc bị đắm chìm trong sự nô dịch tàn bạo của chủ nghĩa Thực dân. Dưới chiêu
bài “khai hoá văn minh”, biến triều đình phong kiến nhà Nguyễn làm tay
sai, thực dân Pháp đã thi hành những chính sách cực kỳ phản động, áp bức nhân
dân ta về chính trị, bóc lột, bần cùng về kinh tế đi đôi với sự nô dịch, đầu
độc nhân dân ta về văn hoá, xã hội. Xã hội Việt Nam lúc này chồng chất các mâu
thuẫn, trong đó nổi bật lên hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa nông dân với
phong kiến và mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp và tay
sai.Lúc này: Dân tộc Việt nam đứng trước nhiệm vụ lịch sử nặng nề là vừa đánh
đuổi đế quốc xâm lược vừa phải đập tan bộ máy thống trị của bọn phong kiến tay
sai, để giành độc lập, dân chủ mở đường
cho sự phát triển theo xu hướng phát
triển tất yếu của lịch sử và con đường tất yếu của thời đại.
Với
truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, lòng yêu nước nồng nàn, cả dân
tộc đã đồng lòng đứng lên theo tiếng gọi của non sông, đất nước quyết không
chịu khuất phục quân xâm lược và bè lũ tay sai. Song các phong trào dân tộc,
dân chủ, của các thế hệ người Việt nam yêu nước, của các tầng lớp Sỹ phu, trí
thức dân tộc diễn ra hết sức, quyết liệt tràn đầy dũng khí nhưng đều lần lượt
bị thất bại. Các phong trào như Cần vương, Đông kinh nghĩa thục…theo các khuynh
hướng Tư sản nổ ra ở khắp Bắc- Trung- Nam
đều lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Sự lạc hậu về tư tuởng
cùng những hạn chế không thể khắc phục được trong bản thân giai cấp không còn
phù hợp đã khiến cho những nhà đại ái quốc của phong trào Cần vương cũng như
những người con ưu tú, đại diện cho khuynh hướng tư sản, cùng với các chính
đảng của họ lần lượt thất bại, bất lực trước yêu cầu tất yếu của lịch sử. Họ đã
ra đi mang theo chí nguyện cháy bỏng không thành mặc dù dũng khí và nhiệt huyết
có thừa. Cách mạng Việt Nam chìm trong đêm tối không có đường ra. Thực hiện
chính sách nô dịch và bóc lột nhân dân ta, thực dân Pháp ra sức khai thác tài
nguyên vơ vét của cải đem về chính quốc. Cùng với chính sách khai thác thuộc
địa của Pháp thì trong xã hội Việt Nam đã sản sinh ra một giai cấp mới: Giai
cấp công nhân Việt Nam. Một giai cấp gắn liền với nền sản xuất công nghiệp, bị
áp bức và bóc lột dã man tàn bạo, song ngay từ khi ra đời tuy còn nhỏ bé về số
lượng nhưng đã mang trong mình những đặc trưng của một lực lượng xã hội tiên
tiến nhất so với các giai cấp khác, nó phù hợp với tính chất xã hội và xu hướng
phát triển của lịch sử Việt Nam. Ngay từ cuối thế kỷ19, đầu thế kỷ 20 phong
trào đấu tranh của những thợ thuyền Việt Nam đã diễn ra hết sức sôi nổi trong
các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền ở khắp 3 kỳ đòi dân sinh, dân chủ, đòi cải cách
chế độ làm việc, tăng lương giảm giờ làm, chống đế quốc.
Năm
1917 cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế
giới như mặt trời chói lọi, soi tỏ con đường đấu tranh của giai cấp công nhân
các nước và các dân tộc bị áp bức bóc lột.
Trải
qua quá trình hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận ở trong nước và trên thế
giới, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga. Với trí
tuệ của một thiên tài và tinh thần chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, sự nhạy cảm trong tổng kết thực tiễn,
Nguyễn Ái Quốc đã đến với chân lý chủ nghĩa Mác - Lê Nin mà trước hết là chủ nghĩa Lê Nin từ vấn đề dân tộc và thuộc
địa để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, xác định chính xác con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, Người nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản" đi theo con
đường cách mạng vô sản, tất yếu phải có
sự lãnh đạo của đội tiên phong của giai cấp công nhân, đó là Đảng cộng sản.
Nhận thức sâu sắc quy luật khách quan đó, và tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê
nin về một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước việt nam, để chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị và tổ chức cho sự thành lập một chính Đảng Mác- xít. Bắt đầu từ tổ
chức Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đến các tổ chức cộng sản ở 3
miền Bắc- Trung- nam. Với sự lựa chọn sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc đó là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê nin, với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước đã dẫn đến một tất yếu lịch sử: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời- sự
hợp nhất 3 tổ chức cộng sản Việt nam vào ngày 3/ 2/ 1930 tại Hương cảng (Trung
quốc).
Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời là một sự kiện trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam chấm dứt 1
thời kỳ dài khủng khoảng đường lối cách mạng, mở ra một thời đại mới của cách
mạng Việt Nam. Đảng ra đời đã đề ra đường lối chiến lược khoa học- Cách mạng,
ngay từ cương lĩnh đầu tiên đã hướng dẫn toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân theo con đường độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Đó chính là sự xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam thông qua chính Đảng tiền phong của mình để gánh vác sứ mệnh lịch
sử vẻ vang của dân tộc, một thời đại giai cấp công nhân Việt Nam trở thành trung tâm kết hợp các trào lưu cách mạng, là
nhân tố quyết định nội dung phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam., nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ đây, nhân dân Việt Nam
với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường, khát vọng độc lập tự do cháy bỏng
bắt gặp tư tưởng cách mạng, khoa học và triệt để nhất của nhân loại, đã trở thành lực lượng
cách mạng trung kiên một lòng một dạ đi theo Đảng thực hiện sự nghiệp của giai
cấp công nhân Việt Nam, làm ra lịch sử một cách tự giác và có tổ chức, đồng
thời đóng góp vào sự nghiệp giải phóng loài người khỏi chế độ áp bức và bóc
lột.
Nhìn
lại cách mạng Việt Nam 87 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta càng tự
hào về Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc ta tiến tới những đỉnh
cao trong lịch sử dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa đường chỉ lối cho mọi
tầng lớp nhân dân ta kiên cường đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Thành công của quá trình lãnh đạo cách mạng, vai trò to lớn của Đảng
đối với dân tộc ta được lịch sử thừa
nhận là do bản chất và bản lĩnh cách mạng khoa học của Đảng, năng lực và trí
tuệ tập trung của cả một đội ngũ những
người con ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc, được biểu hiện
tập trung ở đường lối cách mạng đúng đắn phù hợp với sự phát triển của dân tộc
và thời đại; ở tài năng chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng; ở trong phương
pháp tiến hành cách mạng của Đảng. Trong 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là:
Thắng
lợi của cách mạng tháng 8/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông -Nam Á. Đây là kết quả tổng hợp của các phong
trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao
trào Xô viết Nghệ tĩnh, cuộc vận động dân chủ năm 1936-1939 đến phong trào giải
phóng dân tộc năm 1939-1945, mặc dù có những lúc phong trào bị dìm trong bể máu
nhưng cuối cùng Đảng ta, dân tộc ta đã chiến thắng, thực dân pháp phải đầu
hàng, chế độ thuộc địa nửa phong kiến gần một trăm năm, chế độ phong kiến hàng
nghìn năm bị xoá bỏ, một kỷ nguyên mới được mở ra cho dân tộc- Kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của những cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế của nhân dân ta trong suốt 1/3 thế kỷ đấu tranh kiên cường và anh
dũng chống lại những kẻ thù xâm lược là minh chứng sáng ngời của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, triệu người như một, là sự
đồng lòng nhất trí với quyết tâm sắt đá:
“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước không chịu làm nô lệ”;
“ Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải giành cho được độc lập tự do”;
là dù trong bất cứ hoàn cảnh nào nhân
dân ta, quân đội ta vẫn một lòng một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng,
Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu để luôn luôn giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác, buộc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phải đầu hàng chấm dứt chính sách
xâm lược kiểu cũ, kiểu mới của chủ nghĩa đế quốc, toàn dân thực hiện trọn vẹn
di chúc của Bác Hồ kính yêu: non sông thu về một mối, hoàn thành trọn vẹn cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa cả nước đi lên
Chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới
vì hoà bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hôm
nay, mỗi chúng ta thật tự hào về những chiến công vẻ vang của quân và dân ta
trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ và kiên cường chống lại 2 đế quốc to là Pháp
và Mỹ xâm lược.Trong suốt chiều dài của 2 cuộc chiến tranh đó quân và dân ta đã
làm nên những dấu son lịch sử, tôn vinh phẩm giá con người và dân tộc Việt Nam
sáng ngời trên trường quốc tế và đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn
mới.
Thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới của đất nước, từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH là sự kế thừa những thành tựu và
kinh nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc khi còn chiến tranh để Đảng ta ngay sau
khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều năm tìm tòi khảo nghiệm mô hình, đã
khởi xướng và lãnh đạo thưc hiện đường lối đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ
quốc phù hợp với thực tiễnViệt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghiã lịch sử
trong sự nghiệp đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và xã hội ta. Đã nâng
cao vị thế Việt Nam trên Thế giới. Thắng lợi ban đầu công cuộc đổi mới đất nước
đã khẳng định: Đảng ta không những tài giỏi lãnh đạo cách mạng chiến tranh giải
phóng, chiến tranh bảo vệ tổ quốc, mà trong thời kỳ mới Đảng cộng sản Việt Nam
càng vững vàng với tầm cao trí tuệ đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi
trong hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh và phát triển. Với những
thắng lợi vĩ đại, suốt 87 năm qua, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa Nước ta từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường XHCN. Nhân dân ta từ kiếp người nô lệ trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có tiếng nói và vị trí ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế
giới. Những thành công vĩ đại của thế kỷ 20 đã nâng bước dân tộc Việt nam vững
tin dưới cờ Đảng đi vào thế kỷ 21. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang quyết
tâm đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, mặc dù trong muôn vàn gian khó, thời cơ
thách thức đan xen, các thế lực thù địch không ngừng chống phá một cách quyết
liệt nhưng Đảng cộng sản Việt Nam luôn
luôn giữ vững sự lãnh đạo đất nước, giữ vững vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế được bạn bè khâm phục, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và phát
triển, quốc phòng an ninh được giữ vững; Mục tiêu: Dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh ngày càng trở thành hiện thực trong đời sống chính
trị xã hội trên đất nước ta.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, lịch sử dân
tộc trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo đất nước. Để chèo lái con thuyền cách mạng
vượt qua sóng cả đến bến vinh quang, đòi hỏi Đảng ta phải “Là trí tuệ, là đạo
đức, là văn minh”. Nhất là giai đoạn hiện nay, khủng khoảng kinh tế toàn cầu đã
tác động xấu đến nền kinh tế nước ta, làm chậm tiến độ CNH,HĐH đất nước, trong
khi các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng nước ta bằng âm mưu
“Diễn biến hoà bình”, thì lại càng đòi hỏi Đảng ta phải có đủ năng lực, bản
lĩnh để lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, vững bước đi lên, năng
lực, bản lĩnh lãnh đạo của Đảng, lẽ đương nhiên không thể chỉ ở tài hoạch định
đường lối, mà còn phụ thuộc vào phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên trung
thành với lý tưởng cách mạng, có đức hy sinh, tiền phong gương mẫu, làm gương
cho quần chúng nhân dân noi theo.
Bài
học rút ra từ ngày cách mạng còn trong trứng nước, bài học của hôm nay và bài
học mãi mãi mai sau là quần chúng nhân dân chỉ quý mến, chỉ tin yêu, chỉ làm
theo những đảng viên có tư cách, đạo đức, nói đi đôi với làm. Bác Hồ đã đúc kết
bằng câu nói dung dị, dễ hiểu, dễ nhớ: “Đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”. Nếu trong trận mạc người “đảng viên đi trước” là không sợ hy sinh, gian khổ, bất chấp hòn
tên mũ đạn, xung phong lên giệt quân thù, thì hôm nay người “đngr viên đi
trước” là rèn luyện đạo đức cách mạng để có lối sống trong sáng mẫu mực; tiên
phong trên mặt trận chống tham nhũng, lãng phí, mà thiết thực nhất là đi đầu
thực hiện những giải pháp của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, xây dựng nền
kinh tế phát triển lành mạnh; tiên phong trong lao động sản xuất, làm giầu
chính đáng cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mỗi
tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên hãy soi mình vào tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Hãy lấy nội dung, yêu cầu của Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” làm tiêu chí phấn đấu hàng ngày. Các tổ chức Đảng và
đảng viên hãy tự kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động đã “Làm theo” Bác được
bao nhiêu, được những gì và thực sự là tấm gương cho quần chúng và nhân dân noi
theo. Đó là những việc làm thiết thực kỷ niệm ngày thành lập Đảng, góp phần xây
dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh để lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa