Khởi
nghĩa Bắc Sơn là “tiếng súng báo hiệu” cho một cao trào cách mạng mới, một thời
kỳ đấu tranh mới - thời kỳ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Nền móng của Quân đội nhân dân
Khởi nghĩa Bắc Sơn đã khai
sinh ra Đội Du kích Bắc Sơn. Đây là đội du kích đầu tiên do Đảng Cộng sản Đông
Dương thành lập và trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy. Trên cơ sở Đội Du kích Bắc Sơn,
lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ngày càng lớn mạnh, là cơ sở để phát triển
thành các đội cứu quốc quân 1, 2 và 3 - một trong những đội quân tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vào lúc 20 giờ ngày
27-9-1940, hơn 600 quân khởi nghĩa, gồm đủ các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh đã
tiến công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn). Sau khi chiếm châu lỵ, Ban Chỉ huy
cuộc khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ. Các ngày 28 và 29-9-1940, quân
khởi nghĩa tiếp tục truy quét tàn quân thực dân Pháp ở đèo Canh Tiêm, Sập Dì.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp và phát-xít Nhật thỏa hiệp để tập trung đàn
áp cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đưa quân lên chiếm lại các đồn và đàn áp dữ
dội. Ngay khi được tin khởi nghĩa bùng nổ, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần
Đăng Ninh lên lãnh đạo phong trào và hướng cuộc khởi nghĩa vào mục tiêu xây
dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài. Giữa tháng 10-1940, Ban chỉ huy khu căn cứ
Bắc Sơn được thành lập và cuộc họp ngày 13-10-1940, tại khu rừng Tân Hương đã
ra quyết định thành lập đơn vị Du kích Bắc Sơn đầu tiên. Ngày 28-10-1940, khi
quần chúng cách mạng đang tổ chức mít-tinh ở Vũ Lăng, chuẩn bị đánh chiếm lại
đồn Mỏ Nhài thì bị quân Pháp tiến công. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng
đã để lại những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền,
đặt nền móng cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng với lực lượng vũ trang đầu
tiên, sau phát triển thành Việt Nam Cứu Quốc quân.
Cứu Quốc quân là tên gọi
chung chỉ các đội du kích ở chiến khu Việt Bắc thời kỳ 1941-1945, sau khởi
nghĩa Bắc Sơn 1940. Lực lượng vũ trang này có nhiệm vụ chiến đấu chống khủng
bố, phát triển cơ sở cách mạng của Việt Minh, xây dựng và bảo vệ căn cứ địa,
bảo vệ Hội nghị T.Ư 8 và Trung ương Đảng. Lực lượng Cứu quốc quân gồm ba trung
đội. Ngay tại Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 8 từ ngày 10 đến 19-5-1941, đồng chí
Hoàng Văn Thụ được cử thay mặt Trung ương công nhận trung đội Cứu Quốc quân thứ
nhất và giao nhiệm vụ cứu quốc cho tổ chức này. Trung đội thứ nhất gồm 52 chiến
sĩ, thành lập ngày 14-2-1941 ở Khuổi Nọi, thuộc xã Vũ Lễ, Bắc Sơn, Lạng Sơn.
Trung ương đã ủy thác đồng chí Hoàng Quốc Việt thành lập trung đội Cứu Quốc
quân hai và ba. Trung đội thứ hai gồm 47 chiến sĩ, thành lập ngày 15-9 cùng năm
ở Khuôn Mánh, xã Tràng Xá (Võ Nhai, Thái Nguyên). Trung đội thứ ba được thành
lập ngày 25-2-1944 ở Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang).
Theo Nghị quyết của Hội nghị
Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ tháng 4 -1945, ngày 15-5-1945, Cứu Quốc quân đã hợp
nhất với Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, trở thành Việt Nam Giải
phóng quân.
Phát huy truyền thống bất khuất
Trong 5 năm, từ Đội Du kích Bắc
Sơn rồi đến Cứu Quốc quân, tổ chức này đã nhận nhiệm vụ chiến lược trong thời
điểm hết sức cam go, đó là xây dựng và giữ vững cơ sở, căn cứ địa cách mạng,
hoạt động chính trị, vũ trang để cổ vũ phong trào toàn quốc. Ba lần thành lập
các đội Cứu Quốc quân thực chất là những lần bổ sung lực lượng để bảo đảm quân
số, nhằm hoàn thành nhiệm vụ chiến lược rất lớn lao và đầy khó khăn: Nam tiến
và mở rộng căn cứ cách mạng.
Trong thời điểm nước sôi lửa
bỏng, khi Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chưa ra đời, nhiệm vụ và công
tác của Cứu Quốc quân vô cùng gian truân và nguy hiểm, bởi đây là lực lượng vũ
trang duy nhất làm chỗ dựa cho Đảng và nhân dân trong cơn bão tố khủng bố trắng
khốc liệt lúc ấy.
Tự hào và phát huy tinh thần
khởi nghĩa Bắc Sơn, với truyền thống cách mạng, với niềm tin vô hạn vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã, đang và sẽ
tiếp tục chung sức, đồng lòng, phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ, vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, cùng cả nước làm nên những thắng lợi mới, đời sống của
nhân dân tiếp tục được cải thiện, an sinh và phúc lợi xã hội được quan tâm và
bảo đảm ngày càng tốt hơn; chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội được giữ vững, vị thế của tỉnh ngày càng được nâng cao; khối đại đoàn
kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị đạt được nhiều kết quả tích cực.
Khởi nghĩa Bắc Sơn 27 tháng 9 năm 1940 là tiếng súng
báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ tiến lên đấu tranh vũ
trang giành chính quyền về tay nhân dân. Khởi nghĩa Bắc Sơn gắn liền với sự ra
đời của Đội du kích Bắc Sơn, tạo tiền đề cho Đảng ta đề ra chủ trương thành lập
đội Cứu quốc quân Bắc Sơn - một trong những đội vũ trang tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam; xây dựng và củng cố căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai làm nòng
cốt cho xây dựng và phát triển căn cứ địa Việt Bắc. 79 năm đã trôi qua, khởi
nghĩa Bắc Sơn mãi mãi là mốc son lịch sử sáng ngời, là nguồn sức mạnh tinh thần
to lớn cổ vũ, động viên chúng ta không ngừng nỗ lực, phấn đấu, đóng góp nhiều
hơn nữa trí tuệ vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp,
văn minh./.
Tâm trong, trí sáng...hay
Trả lờiXóaKhởi nghĩa Bắc Sơn 27 tháng 9 năm 1940 là tiếng súng báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ tiến lên đấu tranh vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Khởi nghĩa Bắc Sơn gắn liền với sự ra đời của Đội du kích Bắc Sơn, tạo tiền đề cho Đảng ta đề ra chủ trương thành lập đội Cứu quốc quân Bắc Sơn - một trong những đội vũ trang tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam; xây dựng và củng cố căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai làm nòng cốt cho xây dựng và phát triển căn cứ địa Việt Bắc. 79 năm đã trôi qua, khởi nghĩa Bắc Sơn mãi mãi là mốc son lịch sử sáng ngời, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ, động viên chúng ta không ngừng nỗ lực, phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa trí tuệ vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
Trả lờiXóaKhởi nghĩa Bắc Sơn là một mốc son chói lọi của tinh thần yêu nước, quyết tâm chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, thể hiện sự sáng tạo và tài thao lược trong chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng của Đảng.
Trả lờiXóaKhởi nghĩa Bắc Sơn 27 tháng 9 năm 1940 là tiếng súng báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ tiến lên đấu tranh vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Trả lờiXóa