Ngay sau khi nhận được tin cuộc khởi nghĩa bùng nổ, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử
đồng chí Trần Đăng Ninh lên lãnh đạo phong trào và hướng cuộc nổi dậy vào mục
tiêu xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài.
Giữa tháng 10/1940, ban chỉ huy căn cứ Bắc Sơn được thành lập, tiếp đó
ngày 13/10/1940, cuộc họp tại khu rừng Tân Hương đã quyết định thành lập đơn vị
du kích Bắc Sơn. Ngày 28/10/1940, quần chúng cách mạng đang tổ chức mít tinh ở
Vũ Lăng, chuẩn bị đánh chiếm lại đồn Mỏ Nhài, thì bị quân Pháp tấn công. Khởi
nghĩa Bắc Sơn chỉ tồn tại trong vòng 1 tháng, chỉ diễn ra trên phạm vi một huyện,
nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cuộc khởi nghĩa đã mở đầu thời kỳ cách mạng
nước ra sử dụng các hình thức bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp với
đấu tranh chính trị , nổi dậy của quần chúng.
Đồng
chí Phùng Chí Kiên (1901-1941), một trong những chỉ huy đầu tiên của đội du
kích Bắc Sơn.
Cuộc khởi nghĩa vũ trang thất bại nhưng đã để lại bài học quý báu về khởi
nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền, hơn nữa đã đặt nền móng đầu tiên cho việc
xây dựng căn cứ địa cách mạng với những lực lượng vũ trang đầu tiên mà sau này
phát triển thành Việt Nam Cứu quốc quân.
Thực hiện chủ trương của Hội nghi Trung ương lần thứ VII (11/1940) về
việc duy trì và bồi dưỡng lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, làm vốn
quân sự đầu tiên cho cuộc cách mạng, ngày 14/2/1941, đội du kích Bắc Sơn được
thành lập trong một buổi lễ tổ chức tại rừng Khuôi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn,
tỉnh Lạng Sơn). Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã thay mặt trung ương Đảng công nhận,
trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng. Đội
du kích Bắc Sơn gồm 32 đồng chí, do đồng chí Chu Văn Tấn và đồng chí Lương Văn
Tri chỉ huy (từ tháng 6/1941 do Phùng Chí Kiên chỉ huy). Sau hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) đơn vị được đổi tên thành đơn vị Cứu quốc quân
thứ nhất. Ngay khi vừa mới thành lập trung đội vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham
gia hoạt động quân sự nhằm bảo vệ căn cứ địa cách mạng.
Tiếp đó, nhằm xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến Trung đội cứu quốc
quân thứ 2 được thành lập vào ngày 15/9/1941, lễ thành lập được tổ chức tại rừng
Khuôn Mánh (Thôn Ngọc Mỹ, Tràng Xá, Vũ Nhai, Thái Nguyên) với sự có mặt của đồng
chí Hoàng Quốc Việt, đại diện cho trung ương Đảng. Đơn vị gồm 47 chiến sĩ, chia
làm 5 tiểu đội cho Chu Văn Tấn chỉ huy. Mặc dầu được trang bị thô sơ, nhưng
ngay khi mới thành lập, đơn vị đã trở thành chỗ giữa vững chắc cho phong trào
quần chúng, bảo vệ và mở rộng khu căn cứ, hỗ trợ tích cực cho những cuộc đấu
tranh chính trị cũng như làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng ở các địa phương.
Bước sang năm 1944, phong trào đấu tranh dâng cao, để đáp ứng cho nhu cầu
phát triển của phong trào, ngày 25/2/1944 trung đội cứu quốc quân thứ 3 được
thành lập tại khu rừng Khuổi Kịch (Châu Sơn Dương, Tuyên Quang) gồm 24 chiến sĩ
do Chu Văn Tấn chỉ huy. Địa bàn hoạt động của Trung đội cứu quốc quân thứ 3 là
các tỉnh Đại Từ (Thái Nguyên), Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Tại đây đồng chí
Hoàng Quốc Việt đã làm lễ công nhận đơn vị. Từ 3 trung đội cứu quốc quân, dưới
sự chỉ đạo của Đảng, lực lượng vũ trang không ngừng phát triển về số lượng và sức
chiến đấu phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giành độc lập sau này.
Cuối năm 1944 đứng
trước những yêu cầu của cuộc cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị
thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (ĐVNTTGPQ). Đội thành lập gồm
3 tiểu đội với 34 chiến sĩ, được chọn lọc từ các đội du kích Cao Bằng - Bắc Sơn
- Lạng Sơn, trở thành đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng
và tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng
Quân đội nhân dân Việt Nam-Biểu tượng của tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”; qua từng giai đoạn lịch sử Quân đội đã thắng mọi kẻ thù xâm lược; hình ảnh Anh Bộ đội Cụ Hồ mãi là hình ảnh cao đẹp, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Trả lờiXóaBạn nói quá chuẩn
Xóa