Cứ đến
dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng
chung của toàn dân tộc trước các thế lực ngoại xâm – chiến thắng vĩ đại đã giúp
non sông thu về một mối.
Mặc dầu vậy, một bộ phận nhỏ người
gốc Việt sống ở nước ngoài lại hậm hực coi dịp 30/4 là “ngày hận, tháng đen” và
tổ chức kỷ niệm sự kiện này theo cách riêng của họ. Theo họ, cái chính thể mang
tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do
sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc.
Trước các luận điệu hoặc ngộ nhận
này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử của chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công
cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam
Cộng hòa để thấy rõ bản chất của nó và những sự thật mười mươi.
Có thể nói, ngay
từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng
nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên
nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ
nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ.
Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính
danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của
muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào
vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu
Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của
đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện
này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu
tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.
Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam chỉ
tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không
phải là biên giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp
thương để thống nhất đất nước trong năm 1956.
Tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm - do CIA
(Mỹ) “tìm thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại
- đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định
Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam
Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ.
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của
Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) – đây là một chế
độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do cựu hoàng Bảo Đại làm
quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của
“Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.
Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này
đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian rất rõ nét, từ “từng lỗ chân
lông” của mình. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là
bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi
pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước,
đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường
khoe là chiến đấu cho tự do. Tuy nhiên quân đội này lại phát xuất từ chính lực
lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa
phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân
đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị
của người Pháp ở Đông Dương.
Cái gọi là “Cảnh
sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh
sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ năm 1946.
Cả quân lực và
cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên
tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém
được lê khắp miền Nam để chặt đầu người cộng sản và làm họ lung lạc ý chí.
Với bản chất đánh
thuê, quân đội Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ, thiếu lý tưởng, không thể
đại diện cho dân tộc Việt Nam và cũng không thể kế thừa truyền thống quân sự
của dân tộc. Đến khi Mỹ rút viện trợ và ngưng yểm trợ thì quân đội này (cùng
với chính thể Việt Nam Cộng hòa) suy sụp nhanh chóng.
Quân lực Việt Nam
Cộng hòa bao gồm những người con đất Việt máu đỏ da vàng, mang trong mình các
nét văn hóa Việt. Tuy nhiên họ đã không phát huy được sức mạnh của văn hóa và
truyền thống tổ tiên, vì họ đã sống trong môi trường tha hóa và thiếu chính
danh của Việt Nam Cộng hòa, đã lầm đường lạc lối, đã bị lừa dối, bị ép buộc,
hoặc đơn giản là hành động chỉ vì miếng cơm manh áo.
Trong suốt thời gian tồn tại của
mình, dù nhiều lần hô hào Bắc tiến nhưng quân đội Sài Gòn chưa bao giờ có khả
năng đưa lục quân ra miền Bắc XHCN, ngược lại họ luôn trong thế phòng ngự.
Trong
khi đó, ở miền Nam dưới ách Mỹ-ngụy, liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của
dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả…, các hoạt động đấu tranh
vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn.
Cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh vào Mỹ-ngụy, làm
cho Mỹ nhận ra rằng họ không thể thắng ở miền Nam Việt Nam, đồng thời chỉ cho
thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào.
Nếu cái gọi là
Việt Nam Cộng hòa thực sự hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ thì có lẽ sẽ không
xuất hiện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (vào năm 1960), cùng với lực
lượng Quân Giải phóng miền Nam (năm 1961), rồi sau đó là chính phủ Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam (vào năm 1969) ngay trên phần đất của miền Nam Việt Nam, với
nhân lực chính là người miền Nam, nói giọng miền Nam.
Ý Đảng luôn thống nhất với lòng dân,
các đảng viên kiên định bám sát quần chúng như cá với nước. Địch phải liên tục
đối phó với chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ở khắp nơi. Ngay
giữa Sài Gòn, kẻ địch thường xuyên phải căng thẳng vì những trận đánh xuất quỷ
nhập thần của biệt động Sài Gòn và lực lượng an ninh T4.
Trước giờ cáo chung, ngụy quyền còn
tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng thì
không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Ngược lại, những người hạ vũ khí về với
nhân dân đã nhận được sự khoan hồng của cách mạng.
Như vậy, có thể khẳng định
một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội
chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại
xâm và tay sai của ngoại bang.
Các thế lực thù địch điên cuồng chống phá Việt Nam trên mọi phương diện; vì vậy chúng ta phải đề cao cảnh giác để không bị kích động, lôi kéo.
Trả lờiXóaCần phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ xuyên tạc sự thật
Trả lờiXóa