Cùng với sự phát
triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, những năm qua, giáo dục Việt Nam có những
chuyển động tích cực và chuyển biến tiến bộ về nhiều mặt. Chính những thành tựu
to lớn về giáo dục không chỉ là một trong những động lực thúc đẩy đất nước đi
lên, mà góp phần làm cho diện mạo đời sống xã hội ngày càng khởi sắc.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, lợi dụng
một số vụ việc xảy ra trong ngành giáo dục, một số người có cái nhìn mang nặng
tính áp đặt chủ quan, thiếu thiện chí, thiếu nhân văn, thậm chí đánh đồng hiện
tượng với bản chất theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, từ đó có những liên tưởng, suy
diễn không đúng mực về nhà giáo, về ngành giáo dục Việt Nam. Cá biệt có trường
hợp lợi dụng những vụ việc xảy ra trong hoạt động giáo dục để xuyên tạc mục
tiêu, bản chất tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Ví như họ coi ngành
giáo dục là “ngành ăn mày xã hội”, viễn cảnh giáo dục Việt Nam như một bức màn
“màu đen xám xịt”, đó là “nền giáo dục ngu dân do độc đảng cai trị”…
Viết về giáo dục mà bằng những lời lẽ
vô văn hóa, phản giáo dục như vậy đã bộc lộ rõ “tim đen” của những người bình
luận. Mặt khác, cách nhìn nhận, đánh giá về giáo dục Việt Nam kiểu đó chẳng
khác nào cách liên tưởng bằng con mắt “mù màu”, bằng những lời xuyên tạc trơ
trẽn. Vì thế, không những không được hầu hết người dân Việt Nam chấp thuận, mà
cũng khó có thể làm lung lay nền tảng vững chắc của nền giáo dục cách mạng Việt
Nam đã được vun trồng, bồi đắp bền bỉ hơn 7 thập niên qua dưới chế độ giáo dục
XHCN đầy tính nhân văn, ưu việt.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, suốt hơn 74 năm qua kể từ khi nước
Việt Nam giành được độc lập, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam ngày càng quan
tâm đến lĩnh vực giáo dục, vì giáo dục liên quan đến sức mạnh, sự trường tồn,
hưng thịnh của quốc gia. Đảng ta nhiều lần khẳng định, giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Vì
vậy, trong từng thời kỳ cách mạng, giáo dục Việt Nam luôn có sự cải cách, đổi
mới để theo kịp sự phát triển của thời đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, Việt Nam đã
tiến hành nhiều cuộc cải cách giáo dục. Năm 1950, cuộc cải cách giáo dục lần
đầu tiên đã nhằm mục tiêu xây dựng một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân;
đến năm 1956, cải cách giáo dục lần thứ hai hướng tới đào tạo, bồi dưỡng thế hệ
trẻ thành những công dân tốt, có đức có tài; đến lần thứ ba năm 1981, cuộc cải
cách giáo dục toàn diện hơn, đồng bộ hơn nhằm tạo bước chuyển biến mới về hệ
thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Hiện nay, chúng ta đang khẩn
trương tiến hành một “cuộc cách mạng” về giáo dục với việc đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI của Đảng, bảo
đảm cho giáo dục Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN, hội nhập quốc tế,
thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Một trong những thành tựu lớn nhất
trong hơn 30 năm đổi mới được cộng đồng quốc tế ghi nhận là nền giáo dục Việt
Nam có sự phát triển cả về lượng và chất. Chúng ta không chỉ hoàn thành mục
tiêu đưa hầu hết trẻ em đúng độ tuổi được đến trường học tập và đến nay cơ bản
hoàn thành phổ cập THCS ở khắp các địa phương trong cả nước, mà chất lượng giáo
dục cũng ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực ở tất cả đối tượng học sinh và
các cấp học, bậc học. Đến nay, các trường đại học ở Việt Nam đã có hơn 500
chương trình đào tạo quốc tế với các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới;
chưa kể hàng chục chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, cử nhân tài năng,
chương trình tiên tiến theo chuẩn quốc tế, chương trình đào tạo theo định hướng
nghề nghiệp ứng dụng (POHE)…
Những năm gần đây, Việt Nam cũng trở
thành một trong những điểm sáng trên bản đồ giáo dục thế giới khi đăng cai và
tổ chức thành công nhiều kỳ thi quốc tế, như: Olympic Vật lý châu Á 2004,
Olympic Toán học quốc tế 2007, Olympic Vật lý quốc tế 2008, Olympic Hóa học
quốc tế 2012, Olympic Sinh học quốc tế 2016. Đặc biệt, thành tích của các đội
tuyển học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế cũng rất nổi bật,
được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ. Năm 2017, đội tuyển Olympic quốc tế các môn
Toán, Vật lý, Hóa học của Việt Nam được đánh giá là giành thành tích cao nhất trong
lịch sử tham dự Olympic bởi cả số lượng, chất lượng huy chương mang về cho Tổ
quốc. 4/4 thí sinh dự thi Olympic Hóa học đều giành huy chương (gồm 3 Huy
chương Vàng, 1 Huy chương Bạc). Đội tuyển Olympic Vật lý Việt Nam đoạt 4 Huy
chương Vàng, 1 Huy chương Bạc, đứng thứ 5/86 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự,
sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga và Singapore. 6/6 thí sinh Việt Nam đều giành huy
chương (4 Huy chương Vàng, 1 Huy chương Bạc, 1 Huy chương Đồng) cuộc thi
Olympic Toán học quốc tế, xếp thứ 3/112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự, chỉ
sau Hàn Quốc và Trung Quốc. Đó là minh chứng sinh động thể hiện giáo dục Việt
Nam đang chủ động hội nhập thế giới, không ngừng tiếp cận chuẩn mực giáo dục
quốc tế để làm mới, làm giàu cho nền giáo dục của quốc gia mình. Đó cũng là gam
màu tươi sáng thể hiện bức tranh giáo dục Việt Nam đang trên đà khởi sắc.
Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa
nền giáo dục Việt Nam chỉ toàn “màu hồng”, mà Việt Nam cũng đang gặp những khó
khăn, thách thức phải vượt qua. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
định sâu sắc tại Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI, từ đó đưa ra những giải pháp căn
cơ, đồng bộ để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà trong thời gian
tới./.
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành giáo dục Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn; mong cho ngành giáo dục tiếp tục phát huy, đào tạo ra những con người có trình độ cao để phục vụ đất nước.
Trả lờiXóaChúng ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng ta đối với ngành giáo dục
Trả lờiXóa