Xã hội hiện đại, báo chí có vai trò quan trọng trong
việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước và tiếng nói của nhân dân, là
công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa
đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng, được coi là một
phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động thúc đẩy phát triển. Tuy
nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị
thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.
Cứ thành thói quen, vào dịp kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng
Việt Nam (21/6), trên nhiều trang mạng trong và ngoài nước cũng như một số
phương tiện truyền thông quốc tế đã có những đánh giá sai lệch, xuyên tạc thực
tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, cơ hội
chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” ra
sức ngụy biện để đổi trắng thay đen, nói không thành có, có thành không về thực
tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta luôn khẳng định Việt Nam là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có
Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn
luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự
do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương
tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.
Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp
đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và
2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của
công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực
thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của
mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và
giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức,
cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi
bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Đến hết năm 2020, Việt Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia
hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan
báo chí điện tử), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh truyền hình với
tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền. Việt Nam còn được ghi nhận là một
trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế
giới. Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong
đời sống, sinh hoạt ở Việt Nam.
Những minh chứng trên cho thấy, không thể phủ nhận những
thành thành tựu to lớn, vững chắc đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
ở Việt Nam và sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế
nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia. Hãy để
người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của mình, vì không ai khác, chính mỗi công dân Việt là
người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó
đến đâu.
Những luận điệu xuyên tạc, vu khống không xuất phát từ
tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân thì làm sao
có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện tiếng nói dân chủ như những gì các
thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao. Hiển
nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không được
tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết
thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán những
ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét