Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2022

NVD39 - Không tham gia “liên minh quân sự” – chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng

 

1. Nhận diện quan điểm sai trái thù địch

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền, cổ súy cho các quan điểm cho rằng Việt Nam nên rút kinh nghiệm từ xung đột Nga – Ukraina, tham gia “liên minh quân sự” để tăng cường sức mạnh, bảo vệ đất nước trước các nước lớn.

Điều này, không còn quá mới lạ với tất cả chúng ta, trước đây chúng thường xuyên tuyên truyền cho rằng "Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc"

Họ cho rằng chính sách "không liên minh quân sự" không chỉ dẫn đến mất lãnh thổ và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông vào tay Trung Quốc mà còn đe dọa an ninh tổng thể của Việt Nam trong trường hợp chiến tranh xâm lược năm 1979 được lặp lại. Họ lý giải rằng, Việt Nam thực hiện chính sách "bốn không" là nguy cấp, vì sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là "quá yếu", "lạc hậu". Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nga hay Nhật,… thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Chúng kết luận, chính sách "không liên minh quân sự" chẳng những không giữ được nước mà cũng không giữ nổi chế độ cộng sản, nó còn làm Đảng ta "mất cả chì lẫn chài" (ám chỉ Đảng ta sẽ mất cả quyền lãnh đạo). Thậm chí, chúng không ngại chỉ ra rằng: "Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ sớm ngày nào thì nguy cơ tiếp tục mất đảo, mất quyền chủ quyền trên Biển Đông vào tay Trung Quốc cũng như nguy cơ hứng chịu một cuộc chiến tranh trên biển lẫn đất liền bị đẩy lùi ngày ấy"

2. Phê phán quan điểm sai trái thù địch

Phải chăng muốn bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải liên minh quân sự với một cường quốc?

Một là, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao không thể phó thác hoàn toàn cho bên ngoài, dù đó là một đồng minh cường quốc.

Chúng ta không phủ nhận vai trò, tác dụng tích cực của liên minh trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ liên minh quân sự với cường quốc nào. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, Việt Nam nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bè bạn, nhưng chúng ta không tham gia khối liên minh quân sự nào của Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta tham gia thành lập khối liên minh Việt Nam - Lào - Campuchia (13/3/1951) nhằm tăng cường khối đại đoàn kết ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai, giành độc lập hoàn toàn, xây dựng đất nước, làm cho nhân dân ba nước được tự do, hạnh phúc và tiến bộ. Đây là liên minh mang tính tự vệ, chính nghĩa trong vai trò như một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc vào thời điểm lúc đó. Xuyên suốt lịch sử quân sự Việt Nam, cho đến nay, không có quan điểm lý luận liên minh quân sự để chống lại nước khác, hoặc như là một giải pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Ngay trong điều kiện hai cuộc kháng chiến cực kỳ tàn khốc, ác liệt, gian khổ và kéo dài vừa qua, Việt Nam vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ không tham gia liên minh quân sự với cường quốc.

 Trong điều kiện hòa bình hiện nay, khi mà xu hướng đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc trên thế giới ngày càng chủ đạo thì việc các nước giúp nhau bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc không hề đơn giản. Cốt vật chất để gắn kết các liên minh chính là lợi ích chung và phần lợi ích của mỗi bên thành viên trong liên minh nhận được. Những liên minh "thần thánh" đều là giả tưởng trong đầu óc của những nhà huyễn tưởng, không có chỗ đứng trong thực tiễn chính trị - quân sự sống động, phức tạp và thực dụng hiện nay.

 Hai là, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh.

Trên thế giới có ba kiểu liên minh phổ biến là: (1) Nước lớn liên minh với nước lớn; (2) Nước lớn liên  minh với nước nhỏ hoặc nước nhỏ liên minh với nước lớn; (3) Nước nhỏ liên minh với nước nhỏ. Việc một nước nhỏ muốn liên minh quân sự với một cường quốc (nước lớn) nhằm mục đích bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của mình, vậy lợi ích của cường quốc sẽ là gì trong sự liên minh này? Xưa nay không ai cho không ai bao giờ; cái gì cũng có giá của nó. Cái giá ở đây là nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng trước khi có thể tránh được những nguy cơ đó, thì cái giá phải trả hiện hữu và có thật, đó là: nước nhỏ phải chấp nhận nhượng bộ ít nhiều về chủ quyền hoặc lợi ích quốc gia - dân tộc mình với cường quốc liên minh. Đó là vốn liếng, tài sản "thế chấp" để nhận được những "cam kết" bảo vệ an ninh từ đồng minh. Đó cũng là "luật chơi" không thể khác trong quan hệ quốc tế hiện nay. Ở đây nước nhỏ đã đem lợi ích thực tế để đánh đổi lấy khả năng bảo vệ an ninh. Một khả năng mà khi muốn hiện thực hóa nó bao giờ cũng gắn với những điều kiện "đính kèm" cần và đủ từ phía các đồng minh nước lớn. Nói như vậy không có nghĩa là hoài nghi, nghi kị đồng minh, mà muốn nói tới một thực tế, một khía cạnh của luật chơi trong quan hệ quốc tế hiện nay.

 Thực tế lịch sử thế giới từ trước tới nay, nhất là gần đây cho thấy không phải cứ có liên minh với một cường quốc quân sự là có thể bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước trong liên minh, nhất là các nước nhỏ. Các cường quốc, vì lợi ích quốc gia - dân tộc của họ, mà lợi ích này họ cũng đề cao như hầu hết các nước khác, - và vì lợi ích "đại cục" mà họ theo đuổi, họ sẽ xử lý quan hệ với các đồng minh theo tiêu chí và triết lý ưu tiên lợi ích "trước hết", "trên hết", "cốt lõi" của họ. Trong nhiều trường hợp như vậy, không ít đồng minh của các cường quốc đã phải "lãnh đủ" hậu quả: từ sự "lạnh nhạt", "ngó lơ", "làm ngơ" đến "bỏ rơi", thậm chí "phải bội" đồng minh để bắt tay với kẻ thù của cường quốc đồng minh. Gần đây, trường hợp của Philippines, một đồng minh thân cận của Mỹ, khi bị một cường quốc khác đe dọa, xâm phạm chủ quyền trên bãi cạn Scaborough (Hoàng Nham, năm 2012), nhưng siêu cường đồng minh cũng không làm gì trước sự cầu cứu của đồng minh nước nhỏ. Bởi tại điều khoản số 5 của Hiệp ước an ninh Mỹ - Philippines (1951) chỉ xem các cuộc tấn công vũ trang trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán (jurisdiction) của cả hai ở khu vực Thái Bình Dương là mối đe doạ chung đối với an ninh của cả hai và Mỹ có trách nhiệm phải bảo vệ. Mỹ sẽ không có trách nhiệm phải bảo vệ Philippines khi bãi cạn Scarborough bị tấn công. Mặt khác, Mỹ cũng không muốn phải vướng vào một cuộc chiến không đáng có ở Biển Đông.

Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là phải tự lực, từ cường, "đem sức ta mà giải phóng cho ta", dựa vào sức mình là chính, trên cơ sở thực lực sức mạnh của quốc gia - dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam không nghiêng hẳn về một bên nào; không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình. 

QĐNDVN tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc

 

 

Ba là, không phải vì sức mạnh quốc phòng của ta "quá yếu" và "lạc hậu" nên phải liên minh quân sự với nước ngoài.

Nếu cho rằng chỉ vì ta yếu và lạc hậu mới cần đến liên minh vậy khi ta mạnh và hiện đại có cần liên minh không? Vì thực tế cho thấy, có những trường hợp nước lớn vẫn chủ động liên minh với nước nhỏ và cũng có trường hợp nước nhỏ khước từ liên minh với nước lớn. Vậy phải lý giải thế nào cho thỏa đáng vấn đề này? Như chúng ta đã biết, mấu chốt của liên minh quân sự không hoàn toàn bắt nguồn từ sức mạnh quân sự yếu hay mạnh mà từ lợi ích và quan điểm của mỗi bên tham gia liên minh.

Hơn nữa, cho rằng sức mạnh quân sự của ta yếu và lạc hậu là không hoàn toàn đúng với thực tế. Theo bảng xếp hạng Chỉ số sức mạnh quân sự toàn cầu của trang web Global Firepower (Hỏa lực toàn cầu - GFP), dựa vào 55 chỉ số (ngoại trừ vũ khí hạt nhân), chủ yếu là dân số, diện tích, số lượng vũ khí, ngân sách quốc phòng, nguồn nhân lực, giao thông, việc tiếp cận các tài sản chiến lược, nguồn nhiên liệu, và điều kiện kinh tế hiện tại, thì trong năm năm gần đây, Việt Nam luôn ở trong tốp 25 nước có sức mạnh quân sự lớn nhất trên thế giới.

 Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, trở thành điểm thu hút đầu tư và du lịch hấp dẫn của thế giới. 

 Về xây dựng Quân đội, chúng ta đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ  trong mọi tình huống[1].

 Mặt khác, sức mạnh quân sự của một quốc gia bao giờ cũng đặt trong mối quan hệ với sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, không thể tách rời được. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới, sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh của truyền thống và hiện đại, sức mạnh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại bắt nguồn từ sức mạnh của con người Việt Nam không ngừng được nâng cao, thế và lực của đất nước được nâng lên một tầm cao mới. Chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững và tăng cường, ngày càng phát huy tính ưu việt, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được giữ vững và phát huy. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Nhờ đó, tạo ra vận hội mới, tạo nên bệ phóng vững chắc để đưa nước ta vươn lên những đỉnh cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 Vì vậy, trên bình diện sức mạnh quân sự, cũng trên bình diện sức mạnh tổng hợp của quốc gia, sức mạnh của Việt Nam không phải là "quá yếu" và "lạc hậu" như những kẻ ác ý, hay yếu bóng vía rêu rao. Trái lại, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định và tin tưởng vào sức mạnh của đất nước và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đủ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, mà không nhất thiết phải liên minh quân sự với nước ngoài.

Bên cạnh đó, chúng ta cần khẳng định quan điểm "bốn không" của Đảng, Nhà nước ta trong chính sách quốc phòng không hề mâu thuẫn với chủ trương: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"[6]. Việc thực hiện chính sách quốc phòng "bốn không", vì thế không cản trở  quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước và các đối tác, trái lại, chính sự minh bạch, rõ ràng và sòng phẳng về mặt quan điểm này lại là cơ sở cho các quốc gia, các đối tác xem xét, cân nhắc để thiết lập một mối quan hệ hợp tác bền chặt lâu dài với Việt Nam.

Như vậy, chủ trương không tham gia “liên minh quân sự” là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nhiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

 

1 nhận xét:

  1. Hiện nay, bọn phản động dùng mọi thủ đoạn nham hiểm để chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, không để mắc mưu của bọn chúng.

    Trả lờiXóa

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...