Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2022

NVD39 - Sự nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân

             Vừa qua, trên trang blog Việt Nam thời báo đối tượng lấy tên “Người Tân Định” phát tán bài “Cái bẫy đang chờ tổng giáo phận Hà Nội” và trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) phát tán bài “gia đình 13 người H’Mông bị trục suất khỏi địa phương vì theo Tin Lành”, nội dung xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta; vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo; kích động chia rẽ quan hệ lương - giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, đòi trả “tự do tôn giáo”.

Nhưng trên thực tế, những ai quan tâm theo dõi chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ  các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự, xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân... Chính sách trên luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán. Sự ra đời của các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt hay kỳ thị bất cứ tôn giáo nào, miễn sao hoạt động của các tôn giáo nằm trong khuôn khổ pháp luật.


            Tự do tôn giáo được xem xét dưới nhiều góc độ. Dưới góc độ pháp lý, tự do tôn giáo là một khái niệm để chỉ quyền tự do theo đạo, tự do bỏ đạo, tự do đổi đạo, tự do thể hiện và thực hành đức tin của mình, tự do trong sinh hoạt tôn giáo, v.v. Đây không chỉ là quyền của cá nhân tín đồ, chức sắc mà còn là quyền của các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân. Cũng từ phương diện pháp lý cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền dân sự hay chính trị nào khác cũng đều phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Không có tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc, tự do một cách tuyệt đối.

Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nêu rõ: “Quyền tự do của cá nhân thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình chỉ phải chịu các giới hạn chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác”. Như vậy, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền nào khác trên phương diện pháp lý đều bị giới hạn bởi khuôn khổ luật pháp.


            Quyền tự do tôn giáo là vấn đề có tính lịch sử. Nghĩa là nó phụ thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể ở từng quốc gia, gắn với một thể chế chính trị - xã hội và điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể nhất định. Không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng mà lại không gắn với một bối cảnh và thực thể nhất định. Điều này khẳng định rằng, không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng hay đo lường, đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Tất nhiên, trên phương diện khoa học, chúng ta vẫn có thể đem ra so sánh, phân tích và đối chiếu. Nhưng trên phương diện quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, các thể chế chính trị bình đẳng, độc lập thì không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc các quốc gia khác phải tuân theo. 


            Thực tế các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, cho thấy rất rõ ràng chính sách nhất quán của Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Bất cứ tổ chức hay cá nhân nào cũng không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đồng thời, không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Đó là chính sách rất đúng đắn, rõ ràng và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.


            Trên thực tế, đời sống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay khá sôi động và đa dạng với nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, nhiều tổ chức tôn giáo và mô hình tổ chức khác nhau. Các tôn giáo đều tôn trọng lẫn nhau, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; đại bộ phận chức sắc, tín đồ sống phúc âm trong lòng dân tộc, tốt đời, đẹp đạo. Tín đồ gương mẫu cũng là công dân gương mẫu. Thế nhưng, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo lại không nhận ra thực tế này, với nhiều tham vọng chính trị và bị lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch, dẫn đến có những hành động cực đoan quá khích chống lại chủ trương, đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ lợi dụng tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”; liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước để hoạt động chống phá.


                Trong âm mưu và chiến lược diễn biến hòa bình, vấn đề tôn giáo, dân chủ nhân quyền được sử dụng như một vũ khí lợi hại, lợi dụng lòng yêu nước, sự sùng đạo của người dân để khoét sâu những bất cập, tồn tại trong đời sống xã hội, nhằm lôi kéo, tập hợp những người dân nhẹ dạ cả tin hoặc thiếu thông tin gây rối, gây phức tạp về an ninh, trật tự, gây bất ổn xã hội. Vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội cần phải tự ý thức và chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn, chiêu bài chống phá của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị nước ta. Vì, nếu như những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không được ngăn chặn kịp thời thì sẽ là nguy cơ rất khó lường, đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta./

1 nhận xét:

  1. Chúng ta phải nhận biết và đấu tranh mạnh mẽ chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam của bọn phản động và các thế lực thù địch

    Trả lờiXóa

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...