Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2024

NVE41 - NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

 

Tôn giáo - Lĩnh vực bị lợi dụng để phục vụ mục đích chống phá cách mạng

Chương I - Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam do Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành năm 2023 mở đầu bằng khẳng định: “Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam được ví như bức tranh thu nhỏ của tôn giáo trên thế giới”. Hiện nay, nước ta có khoảng trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước)

Các tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm theo nhiều con đường khác nhau do nước ta liên tục bị các thế lực bên ngoài xâm lược. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo có nguồn gốc bên ngoài đã được truyền bá vào nước ta. Bên cạnh sự tiếp thu thì các tôn giáo đều có sự cải biến và tiếp biến cho phù hợp với văn hóa của người Việt. Từ những thập niên đầu của thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây đã vào nước ta để truyền giáo. Những thế kỷ tiếp theo, Công giáo, đạo Tin lành có điều kiện phát triển mạnh ở Việt Nam, bên cạnh đó, Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo vẫn tiếp tục cùng đồng tồn.

Với những đặc điểm như vậy, không khó hiểu khi nghiên cứu của các học giả đều chỉ ra thực tế là “đối với vấn đề tôn giáo, từ thực dân, phát xít, đế quốc đến các lực lượng chống đối trong nước và nước ngoài đều coi đây là lĩnh vực có thể lợi dụng để phục vụ cho mục đích chống phá cách mạng”.

Các thế lực bên ngoài khi xâm lược nước ta đều tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của họ như thực hiện chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán của các triều đại phong kiến phương Bắc thời kỳ một nghìn năm Bắc thuộc. Trong thế kỷ XX, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tìm mọi cách nô dịch nhân dân ta về văn hóa thông qua tôn giáo. Hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam qua chiến lược “Diễn biến hoà bình”. “Trong chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được họ gắn với vấn đề nhân quyền, dân chủ qua các thủ đoạn cụ thể”.

Các hình thức và luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch

Núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, với các luận điệu: “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, một số thủ đoạn phổ biến xuyên tạc quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam mà các thế lực thù địch sử dụng nhiều dưới các hình thức tinh vi, gồm:

Một là, lợi dụng internet, lập các trang website, mạng xã hội để phát tán, đăng tải các bài viết, hình ảnh, video clip xuyên tạc chính sách tôn giáo, bôi nhọ quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Hiện nay, có khoảng trên 5.000 trang website, fanpage của các tổ chức phản động lưu vong đã và đang tuyên truyền thông tin xuyên tạc về vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Nổi lên là trang web của các tổ chức như: Việt Tân, Ủy ban cứu người vượt biển và nhiều trang website khác…

Thủ đoạn là “xây dựng những video clip chỉ 2 - 3 phút nhưng đi vào vấn đề thời sự, những câu nói danh ngôn, những hành động đẹp đẽ, hình ảnh bắt mắt. Khi thu hút được nhiều người quan tâm, được nhiều bạn trẻ chia sẻ, những website này chuyển sang phát tán những thông tin phản động, phiến diện, một chiều”, nhằm đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách tôn giáo, kích động quần chúng đòi tự do tôn giáo…

Các phần tử cực đoan trong và ngoài nước khai thác những thiếu sót mang tính cá biệt trong thực hiện chính sách tôn giáo ở một số nơi để kích động người dân, tín đồ tổ chức các cuộc biểu tình, quay video phát tán lên các trang mạng xã hội do chúng thành lập, xuyên tạc tình hình tôn giáo, vu khống Việt Nam hạn chế tự do tôn giáo, kiểm soát hoạt động tôn giáo…

Hai là, tác động một số diễn đàn, tổ chức quốc tế để thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.

Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) là cơ quan tham vấn độc lập cho Quốc hội Mỹ, thành lập nhằm phục vụ cho việc cải thiện “nhân quyền” ở các nước mà Mỹ cho là “cần quan tâm đặc biệt”.

Trong các báo cáo hàng năm về tự do tôn giáo tại Việt Nam, USCIRF cho rằng Việt Nam “đàn áp tôn giáo trong nước”; chỉ trích chính quyền và Công an Việt Nam; USCIRF đặc biệt quan tâm đến số tượng vi phạm pháp luật bị xét xử được họ gọi là “tù nhân lương tâm” và thông tin USCIRF sử dụng trong các báo cáo này chủ yếu từ nguồn thiếu kiểm chứng, được thu thập từ các tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có tư tưởng cực đoan móc nối với các phần tử chống đối trong nước nên luôn thiếu khách quan, thiếu xác thực, thậm chí xuyên tạc về tự do tôn giáo ở nước ta.

Ba là, tìm cách “chính trị hóa” vấn đề tôn giáo, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn vấn đề dân tộc với tôn giáo.

 

Vùng đồng bào dân tộc thiểu số những năm gần đây xuất hiện một số hiện tượng tôn giáo mới bị lợi dụng vào mục đích chính trị, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định xã hội như: “Vương quốc của người Mông” gắn với đạo Tin lành Vàng Chứ, “Nhà nước Tin lành Đềga” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer Krôm” ở Tây Nam bộ; đạo "Bà cô Dợ"; đạo "Giê Sùa" ở một số địa phương vùng núi Tây Bắc... nhằm chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo… Đây đều là những tà đạo, không được pháp luật Việt Nam công nhận.

Các thế lực thù địch lợi dụng một số vấn đề thời sự trong nước, trong đó có đất đai liên quan đến tôn giáo để kích động, lôi kéo một bộ phận người có đạo gây mất ổn định chính trị, xã hội. Lôi kéo, mua chuộc, nuôi dưỡng các phần tử cực đoan, ly khai trong các tôn giáo ở trong và ngoài nước, tuyên truyền kích động gây mất ổn định tình hình các tôn giáo ở Việt Nam.  

Từ vấn đề tôn giáo bị lợi dụng cho thấy, các thế lực ngoại xâm và thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo nhằm can thiệp vào tình hình nội bộ của nước ta. “Họ luôn lợi dụng con bài tự do tôn giáo để nuôi dưỡng, dung túng cho những tổ chức phản động lưu vong, hỗ trợ những thành phần chống đối trong nước tìm cách tác động, xuyên tạc tình hình tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam hòng gây sức ép, hạ uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Họ dựa trên những báo cáo sai lệch để xuyên tạc tình hình thực tế tín ngưỡng, tôn giáo trong nước, trực tiếp can thiệp việc xử lý số đối tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá ở Việt Nam”.

Những chiêu bài, thủ đoạn của các thế lực thù địch thể hiện dã tâm phá hoại chính sách tự do tôn giáo tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, hòng gây nên những bất ổn chính trị trong nước.

Sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thiếu thiện chí với Việt Nam cũng cho thấy những vấn đề liên quan đến tôn giáo luôn cần được giải quyết thỏa đáng để đảm bảo ổn định chính trị, xã hội, không tạo cớ cho các thế lực chính trị bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

 

NVH41 - NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT TRONG CHUYẾN THĂM VIỆT NAM CỦA TỔNG THỐNG LIÊN BANG NGA VLADIMIR PUTIN

 

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam từ ngày 19-20/6/2024. Đây là chuyến thăm với nhiều ý nghĩa quan trọng, có thể coi là một điểm nhấn nổi bật của đối ngoại Việt Nam năm 2024, thể hiện ở những điểm chính sau:

Trước hết, chuyến thăm khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Việt Nam về độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Với việc đón Tổng thống Putin, Việt Nam khẳng định luôn coi Nga là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu, mong muốn cùng Nga củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời và làm sâu sắc hơn khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện đã được xác lập.

Thứ hai, chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 30 năm ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga (16/6/1994 - 16/6/2024), tiến tới kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (30/1/1950 - 30/1/2025), là dịp hai bên đánh giá những kết quả đã đạt được và đề ra những định hướng để đưa quan hệ hợp tác và đối tác Việt – Nga trong thời gian tới phát triển toàn diện, hiệu quả và thực chất hơn.

Thứ ba, chuyến thăm thể hiện sự coi trọng dành cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại Hướng Đông của Nga. Trong hơn hai thập kỷ lãnh đạo Liên bang Nga, đây là lần thứ năm Tổng thống Vladimir Putin thăm Việt Nam, đồng thời là một trong những chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 5 vào tháng 3/2024.

Hai bên đã ra “Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga về làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở những thành tựu của 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga”, thể hiện quyết tâm của Lãnh đạo và nhân dân hai nước đưa hợp tác song phương ngày càng hiệu quả, thực chất trên tất cả các lĩnh vực, xứng tầm Đối tác chiến lược toàn diện, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của cả nhân dân hai nước, đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Có thể nói chuyến thăm của Tổng thống Vladimir Putin đã tạo xung lực mới cho hợp tác nhiều mặt Việt - Nga. Thông qua Tuyên bố chung, 11 văn kiện hợp tác được ký kết và các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, hai bên đã nhất trí về những định hướng lớn nhằm làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga trên những phương diện sau:

Một là, tăng cường đối thoại, tiếp xúc cấp cao và các cấp và trên tất cả các kênh; triển khai hiệu quả các cơ chế hợp tác để thúc đẩy hợp tác trên tất cả các lĩnh vực; tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt Liên hợp quốc, APEC, các cơ chế hợp tác ASEAN – Nga… Nga khẳng định ủng hộ Việt Nam đăng cai Năm APEC 2027 và sẵn sàng phối hợp với Việt Nam tổ chức thành công sự kiện quan trọng này; tiếp tục ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.

Hai là, khẳng định hợp tác kinh tế tiếp tục là trụ cột, trọng tâm của hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Hai bên sẽ cùng nhau phối hợp tháo gỡ khó khăn và thống nhất giải pháp để nâng cao hiệu quả hợp tác; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ chế hợp tác song phương, đặc biệt là Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật; sớm thống nhất, triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển hợp tác Việt Nam - Nga đến năm 2030.

Hai bên cũng sẽ phối hợp cùng khai thác tối đa các lợi thế của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á – Âu, tiếp tục tháo gỡ các rào cản thương mại, tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại song phương; mở rộng tiếp cận thị trường Nga cho xuất khẩu hàng tiêu dùng và nông thủy sản của Việt Nam; thúc đẩy hợp tác đầu tư, nhất là về hạ tầng cơ sở, năng lượng.

Ba là, mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh nhằm ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương về quốc phòng - an ninh, đặc biệt các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), đóng góp cho hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, du lịch, lao động, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, hợp tác địa phương, giao lưu nhân dân, giáo dục thế hệ trẻ... nhằm củng cố nền tảng nhân văn vững chắc cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ký kết 11 văn kiện hợp tác giữa các bộ, ngành, doanh nghiệp hai nước, tạo động lực thúc đẩy quan hệ song phương. Hai bên nhất trí tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam tại Nga và công dân Nga tại Việt Nam sinh sống, học tập và lao động ổn định, làm cầu nối hữu nghị giữa hai nước.

Năm là, lãnh đạo cấp cao hai bên đã trao đổi thẳng thắn, tin cậy về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Theo đó, hai bên khẳng định ủng hộ hệ thống quan hệ quốc tế công bằng, dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, nhất là giải quyết hòa bình các tranh chấp, không đe dọa và sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Về vấn đề Biển Đông, hai bên ủng hộ việc bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982); ủng hộ thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biên Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng thống Vladimir Putin đã thành công tốt đẹp. Chúng ta đã dành cho Tổng thống Vladimir Putin và Đoàn đại biểu cấp cao Nga sự đón tiếp hết sức trọng thị, thân tình, chu đáo. Nhân  dân Việt Nam, nhất là những người đã từng học tập, làm việc tại Liên Xô trước đây và tại Liên bang Nga ngày nay luôn lưu giữ và trân trọng những tình cảm tốt đẹp với đất nước và Nhân dân Nga.

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, chí tình mà nhân dân Nga đã dành cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 

Hai bên trân trọng mối quan hệ hữu nghị, truyền thống lâu đời đã được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước đặt nền móng và vun đắp, trở thành tài sản chung quý báu giữa hai dân tộc, là nền tảng để quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga tiếp tục phát triển vì lợi ích của mỗi nước và đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Tình cảm này, những thành tựu tích cực triển khai Hiệp ước 1994 về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam – Nga và những kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm sẽ là cơ sở quan trọng để hai nước kế thừa và phát huy, tiếp tục phát triển và nâng tầm quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời và Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga.

 

NVH41 - TIẾP TỤC VUN ĐẮP MỐI QUAN HỆ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM – CAM PHU CHIA

 

        Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi và có mối quan hệ truyền thống, gắn bó từ lâu đời. Mối quan hệ này được nhân dân hai nước dày công vun đắp và trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc. Chặng đường 57 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (24/6/1967-24/6/2022) là minh chứng sống động cho mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa Việt Nam và Campuchia.

Quan hệ Việt Nam-Campuchia được định hình và phát triển xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu chung của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của hai nước. Tình đoàn kết chiến đấu giữa hai nước trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân - đế quốc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Campuchia khởi xướng, tạo nên sức mạnh chung to lớn cho quân và dân hai nước thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do.

Ngày 23/6/1967, trong bức điện gửi Quốc trưởng Campuchia Norodom Sihanouk, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Việc đặt quan hệ ngoại giao giữa hai nước chúng ta là biểu hiện rực rỡ của mối tình hữu nghị thân thiết và đoàn kết chiến đấu. Đó là một sự kiện lịch sử trong quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia, một nhân tố tích cực trong việc giữ gìn hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á".

Chỉ sau đó một ngày, ngày 24/6/1967, Việt Nam và Campuchia đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong lịch sử chung của hai dân tộc. Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Campuchia đã sát cánh bên nhau, giành nhiều thắng lợi trên cả mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao, cùng giành chiến thắng lịch sử vào mùa xuân năm 1975. Tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc càng được thể hiện rõ nét và sâu sắc hơn khi hai nước kề vai sát cánh, chung tay lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot tàn bạo, giúp hồi sinh đất nước Campuchia. 

Sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1993 của Campuchia, quan hệ giữa hai nước chuyển sang một giai đoạn mới, phù hợp với tình hình của mỗi nước và bối cảnh quốc tế. Lãnh đạo hai nước tiếp tục khẳng định quyết tâm củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc.

Trong chuyến thăm Campuchia của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí tăng cường và phát triển quan hệ hai nước theo tinh thần "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài". Với định hướng đó, quan hệ hai nước đã không ngừng được củng cố và phát triển trên mọi lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới. Những thành tựu nổi bật trong quan hệ giữa hai nước đó là:

Ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Campuchia cùng với Lào kề vai sát cánh trong đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là thắng lợi lịch sử của ba nước mùa xuân 1975.

Đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và xuất phát từ truyền thống đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai dân tộc, sau khi chặn đứng hành động gây hấn của bè lũ Pol Pot ở biên giới Tây Nam, Việt Nam đã đưa quân tình nguyện sang giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, làm nên Chiến thắng ngày 7/1/1979, giải phóng đất nước và nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, rồi sau đó cử nhiều chuyên gia sang giúp bạn hồi sinh, tái thiết đất nước Chùa Tháp - thực hiện nghĩa vụ quốc tế vẻ vang, trong sáng, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế.

Ngày nay, Việt Nam và Campuchia đều đã có hòa bình, độc lập; quan hệ hai nước bước sang giai đoạn hợp tác toàn diện, cùng có lợi, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.

Quan hệ chính trị giữa hai nước tiếp tục phát triển tốt đẹp. Hai bên duy trì tiếp xúc, trao đổi cấp cao và các cơ chế hợp tác song phương trên tất cả các kênh, kể cả khi đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp Chính phủ và nhân dân hai nước phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau kịp thời và hiệu quả trong công tác phòng chống dịch. Quan hệ hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước càng chặt chẽ và thực chất.

Hợp tác trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng tiếp tục được tăng cường; hai bên kiên định nguyên tắc không cho phép bất kỳ lực lượng thù địch nào sử dụng lãnh thổ của nước này gây phương hại cho an ninh và lợi ích của nước kia. Trên cơ sở các hiệp ước, hiệp định và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, các cơ quan chức năng, chính quyền và nhân dân địa phương biên giới hai bên nỗ lực xây dựng đường biên giới chung hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Năm 2019, hai bên đã ký hai văn kiện pháp lý ghi nhận thành quả phân giới cắm mốc khoảng 84% và hiện hai bên đang tiếp tục đàm phán giải quyết 16% còn lại.

Quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư gần đây phát triển tích cực và đạt được những kết quả nổi bật. Năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Campuchia đạt 8,6 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia đạt 4,9 tỷ USD, nhập khẩu của Việt Nam từ Campuchia đạt 3,7 tỷ USD, giảm 23,7% so với cùng kỳ năm 2022. Riêng 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Campuchia đạt 4,6 tỷ USD, tăng 13,4%; trong đó, Việt Nam xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD và nhập khẩu 2,5 tỷ USD, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm 2023. Các mặt hàng xuất khẩu chính là sắt thép các loại đạt 302 triệu USD; hàng dệt, may đạt 350 triệu USD; xăng dầu các loại đạt 163 triệu USD. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Campuchia đạt 2,5 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chính là hạt điều đạt 971 triệu USD; cao su đạt 278 triệu USD; hàng rau quả đạt 30 triệu USD

Bên cạnh đó, lãnh đạo hai nước cũng cam kết tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho kiều dân hai nước sinh sống trên lãnh thổ của nhau, phù hợp với luật pháp mỗi nước và tinh thần quan hệ láng giềng hữu nghị. Các hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia được phía Bạn đánh giá cao, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của sở tại. Sau thời gian bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, các hoạt động giao lưu, du lịch giữa hai nước bắt đầu khởi sắc trở lại, nhất là khi hai nước đã mở cửa hoàn toàn và nối lại các chuyến bay thẳng. Theo Cục Du lịch quốc gia Việt Nam cho biết, khách Campuchia dẫn đầu hồi phục của du lịch Việt Nam so với cùng kỳ quý 1/2019 - năm đỉnh cao của ngành du lịch, khi đạt mức 335%. Theo đó, 3 tháng qua, có 113.000 lượt khách Campuchia đến Việt Nam. Trong khi đó, hồi “đỉnh cao của du lịch Việt Nam” trước đó, chỉ có 34.000 lượt khách Campuchia nhập cảnh trong 3 tháng đầu năm 2019

Các lĩnh vực hợp tác khác như giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá - thể thao... tiếp tục được quan tâm thúc đẩy. Mỗi năm, Việt Nam cấp hàng trăm suất học bổng dài hạn cho sinh viên Campuchia sang học tại Việt Nam; số lượng sinh viên Việt Nam sang học tập tại Campuchia ngày càng nhiều.

Việt Nam thường xuyên tổ chức các đoàn bác sĩ tình nguyện sang khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho nhân dân Campuchia. Các bệnh nhân Campuchia khi sang khám và điều trị bệnh tại Việt Nam được hưởng mức lệ phí khám chữa bệnh như người Việt. Hai nước cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, nhất là ở các địa phương giáp biên giới.

Có thể nói, 57 năm qua là một giai đoạn phát triển quan trọng quan hệ Việt Nam - Campuchia, được đánh dấu bởi những sự kiện lịch sử không thể quên khi hai nước cùng đoàn kết hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập từ chế độ thực dân, sát cánh bên nhau lật đổ chế độ diệt chủng tàn bạo của Pol Pot, cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển của mỗi nước. Việc hai nước kỷ niệm 57 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao là dịp để chúng ta ôn lại chặng đường đã qua, để các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước, nhận thức sâu sắc hơn và có trách nhiệm hơn trong việc gìn giữ và không ngừng vun đắp cho những giá trị tốt đẹp của quan hệ hữu nghị truyền thống và đoàn kết giữa hai dân tộc.

 

NVH41 - Đấu tranh, ngăn chặn luận điệu xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

 

Gần 40 năm qua kể từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có việc bảo đảm nhân quyền góp phần ổn định và phát triển bền vững đất nước. Việt Nam cũng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và luôn được đánh giá là thành viên tích cực, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch không ngừng đưa ra những luận điệu xuyên tạc về việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam.

Nhiều năm trở lại đây, vấn đề dân chủ, nhân quyền là một trong những mục tiêu trọng tâm mà các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội, phản động thường xuyên lợi dụng, khai thác để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng liên tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Theo đó, một số đối tượng được gọi tên và tung hô trên các diễn đàn như “anh hùng” vì đã dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, nhưng trên thực tế lại là các đối tượng thường xuyên kích động nhân dân chống đối chính quyền soạn thảo, phát tán nhiều tài liệu chống phá Đảng, Nhà nước, bôi xấu chế độ hoặc vi phạm pháp luật nhà nước.

Ngoài ra, cũng phải nhắc tới một số cá nhân vì bất mãn cá nhân hoặc mục đích riêng thường xuyên trả lời phỏng vấn báo đài, nước ngoài xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; thậm chí tập hợp lực lượng là các phần tử, tổ chức trong nước và ngoài nước, hướng dẫn kỹ năng hoạt động chống phá chính quyền.

Tổ chức khủng bố Việt Tân còn dựng lên “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng”, đồng thời coi đây như “một nỗ lực đóng góp cụ thể vào công cuộc đấu tranh cho nhân quyền và tự do của dân tộc Việt Nam”

Với chiêu bài cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối trật tự xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá chế độ, các đối tượng chống đối trong nước móc ngoặc với các thế lực thù địch bên ngoài tìm mọi cơ hội để lan truyền những thông tin ngụy tạo, sai sự thật hòng đánh lừa dư luận về những sai lầm khuyết điểm của các tổ chức cá nhân, lên án “sự yếu kém của chế độ”, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Mục đích mà các đối tượng hướng đến là nhằm gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam; kích động chia rẽ làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước phục vụ cho chiến lược “diễn biến hòa bình” và đích cuối cùng là nhằm chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, trong tiến trình xây dựng nền văn minh, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng công cụ pháp luật. Những đối tượng vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của luật pháp.

Pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp quy định của pháp luật quốc tế và yêu cầu thực tiễn nhằm bảo đảm cho sự phát triển tự do của nhân dân, góp phần xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, ngăn chặn các tổ chức và cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền con người.

Trong đó, tôn trọng và bảo đảm nhân quyền là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Các luận điệu chống phá mà những đối tượng cơ hội, phản động, các thế lực thù địch đưa ra không dựa trên những thông tin chính thống, có kiểm chứng mà dựa trên những thông tin thu thập theo kiểu cóp nhặt, cắt xén có dụng ý, với động cơ chính trị rõ ràng để bôi nhọ Việt Nam.

Như cái gọi là “tù nhân lương tâm” chỉ là sự bịa đặt, sai lệch về pháp lý, bởi lẽ khi có hành vi phạm tội, đối tượng phải chịu sự điều tra, truy tố, xét xử công khai, bị tuyên án và phải chịu hình phạt theo quyết định có hiệu lực của tòa án.

Ở Việt Nam hoàn toàn không có “tù nhân lương tâm”, chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật và bị các cơ quan chức năng truy tố, xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, việc kích động hay ra sức bảo vệ các đối tượng gọi là “tù nhân lương tâm” chỉ là sự cổ súy cho những kẻ vi phạm pháp luật bị kết án nhưng không chấp hành hình phạt, đội lốt dân chủ, lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước, chuyển hóa chế độ xã hội tại Việt Nam.

Trên thực tế, ngay từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam luôn đặt quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của công dân lên hàng đầu, và vấn đề này được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi công dân một cách đầy đủ. Cụ thể tại Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định rõ: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Công dân Việt Nam được đảm bảo về nhân quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… Pháp luật tôn trọng và bảo vệ những tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của mỗi tổ chức và cá nhân nếu phù hợp tinh thần xây dựng và thượng tôn pháp luật, phù hợp chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc.

Đồng thời, nếu những tổ chức và cá nhân có mục đích xấu, động cơ không trong sáng, viện cớ về quyền tự do dân chủ, nhân quyền nhưng lại chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng.

Với cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Việt Nam đã có những nỗ lực không mệt mỏi trong nhiều năm qua để thúc đẩy và bảo đảm nhân quyền.

Nhiều thành tựu về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam được các tổ chức của Liên hợp quốc đánh giá cao. Việt Nam xứng đáng với vai trò là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Thời gian qua, Việt Nam tích cực tham gia và chủ trì các nghị quyết đề cao Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, biến đổi khí hậu và quyền con người,… từ đó có nhiều đóng góp thiết thực đối với hoạt động của Liên hợp quốc.

Việt Nam luôn cầu thị và nỗ lực làm tốt hơn trong vấn đề bảo đảm nhân quyền cho mọi người dân. Trong nhiều báo cáo chính thức của Việt Nam trước các cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc đã thẳng thắn đề cập trực tiếp về những khó khăn Việt Nam gặp phải trong công tác nhân quyền, từ đó đề ra những giải pháp để cải thiện trong thời gian tới.

Thực tế tuy đạt nhiều thành tựu về kinh tế-xã hội với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, được sự hỗ trợ, quan tâm từ Chính phủ nhưng nguồn lực của đất nước vẫn còn hạn chế nên cơ sở vật chất các ngành giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao, y tế... còn thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ đầy đủ quyền của người dân, nhất là khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

Hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu đồng bộ, chưa thật sự sát với thực tiễn. Nhưng quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta là “không ai bị bỏ lại phía sau” và để đạt được điều đó cần sự chung sức, đồng hành, quyết tâm của toàn xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay xuất hiện những đối tượng có mục đích đen tối, thiếu trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng, cố tình lợi dụng quyền tự do, dân chủ để làm tổn hại lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân; thường xuyên sử dụng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để không bị kẻ xấu dẫn dắt, tin nghe theo những luận điệu sai sự thật, mỗi người cần nâng cao nhận thức, tỉnh táo và cảnh giác trước những thông tin không chính thống xuyên tạc việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam. Các cá nhân trong điều kiện và khả năng thực tế cần tích cực tham gia đóng góp công sức vào quá trình phát triển của đất nước; chủ động đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

 

NVD41 - Nhận diện và đấu tranh với luận điệu xuyên tạc, phá hoại Việt Nam nhân sự kiện chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Nga Vladimir Putin tới Việt Nam

 

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có chuyến thăm cấp Nhà nước tới nước ta từ ngày 19 đến 20/6/2024. Trong khuôn khổ chuyến thăm, Tổng thống Putin đã có hàng loạt cuộc hội đàm, hội kiến quan trọng với các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam cũng như tham gia nhiều hoạt động quan trọng khác.

Tuy nhiên, trước sự kiện quan trọng trên, cũng như mọi khi, các đối tượng thù địch, các phần tử phản động lưu vong lại gia tăng các hoạt động bôi nhọ, tung ra các luận điệu xuyên tạc, phá hoại Việt Nam, như trên blog Tiếng Dân đối tượng Khang Vu phát tán bài viết “Putin thăm Việt Nam”: Giai đoạn kế tiếp về cuộc cạnh tranh quyền lực của các nước lớn”, họ quy chụp rằng Việt Nam đang bắt tay với “tội phạm chiến tranh”, “tội phạm truy nã Quốc tế”, xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam – Nga cũng như quan hệ của Việt Nam với nhiều nước khác, cho rằng “lãnh đạo Việt Nam đang mắc sai lầm nghiêm trọng”.

Những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, đối lập với chủ trương, đường lối ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trước đây và Việt Nam – Nga ngày nay được xây dựng trên nền tảng của tình hữu nghị truyền thống trong hơn 7 thập kỷ qua. Lịch sử cho thấy, mối quan hệ giữa hai nước luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và sự biến động của thời đại. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 30/1/1950, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước sau này…

Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Chính phủ và nhân dân Liên Xô. Sự ủng hộ, giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu của Liên Xô trong nhiều thập niên là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hàn gắn vết thương sau chiến tranh của nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp, ngày nay, quan hệ Việt Nam – Nga tiếp tục được lãnh đạo và nhân dân hai nước tích cực xây dựng, vun đắp. Ngày 16/6/1994, hai nước đã ký hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị Việt Nam – Nga. Đây là văn kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, là biểu tượng khởi đầu cho một giai đoạn mới trong phát triển hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Nga, tạo ra tiền đề cho việc đưa quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012.

Nhìn lại lịch sử, có thể nói mối quan hệ song phương Việt Nam – Nga đã luôn đứng vững trước các biến động của thế giới, đã góp phần củng cố hoà bình, ổn định và an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Với nỗ lực chung của hai bên, quan hệ hợp tác nhiều mặt Việt Nam – Nga tiếp tục phát triển tích cực, phù hợp với lợi ích hai quốc gia, là tài sản vô giá của nhân dân hai nước và là hình mẫu của quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác cùng có lợi.

Năm nay, hai nước kỷ niệm 30 năm ngày ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị. Năm 2025, hai nước sẽ tổ chức nhiều hoạt động để kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu chặng đường dài cùng nhau vượt qua thử thách và khó khăn, hợp tác để phát triển đất nước. Trong bối cảnh đó, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời, chuyến thăm cũng thể hiện Việt Nam tích cực thực hiện đường lối đối ngoại theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và đóng góp vào hoà bình, ổn định trên thế giới.

Trong bối cảnh, tình hình hiện nay, khi mà Việt Nam đang thực hiện có hiệu quả chính sách “Ngoại giao cây tre”. Trong các hoạt động đối ngoại, Việt Nam luôn cân bằng hài hoà lợi ích quốc gia – dân tộc với lợi ích của đối tác, Việt Nam luôn kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, vì chính nghĩa… để xây dựng hình ảnh, vị thế của Việt Nam hòa bình, thân thiện trên trường quốc tế thì những luận điệu xuyên tạc chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin, cũng như xuyên tạc chính sách ngoại giao của Việt nam, chống phá nền ngoại giao, chống phá đất nước và nhân dân Việt Nam cần phải được nhận diện, đấu tranh bác bỏ kịp thời. Mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người dân cần giữ vững lập trường, quan điểm, đề cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ xấu và kiên quyết đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch…/.

NVB41 - PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG: “GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRÊN THẾ GIỚI KHÔNG CÒN SỨ MỆNH LỊCH SỬ THEO QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGHEN”.

 

Trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, khi bàn về giai cấp công nhân và vị trí của họ trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản là những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống”. Ngày nay, cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là các phong trào đấu tranh chung vì sự tiến bộ xã hội, cũng như những giá trị tiến bộ của nhân loại đang dần trở thành phổ biến và diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Điều này đã buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại phải có những sự điều chỉnh, thích nghi mới về quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại. Và do đó, giai cấp công nhân hiện nay cũng có nhiều thay đổi so với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX như quan điểm của của C.Mác và Ph.Ăngghen.

 

Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, do ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho năng suất lao động xã hội tăng cao, mức sống chung của xã hội, và của bản thân giai cấp công nhân được nâng lên rõ rệt. Một bộ phận công nhân hiện đại không những bảo đảm được các nhu cầu tiêu dùng mà còn có tiền mua cổ phần, mua cổ phiếu trong doanh nghiệp, xuất hiện tầng lớp công nhân trung gian giữa nhà tư bản và người lao động với các vai trò như: quản lý, giám đốc điều hành, trạm trưởng… (công nhân cổ cồn).

Từ thực tế đó, đã có những luận điệu cho rằng: giai cấp công nhân trên thế giới đang ngày càng được bảo đảm tốt hơn về điều kiện sống, không còn bị “bần cùng hóa”, nên không còn sứ mệnh lịch sử như quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen đã nêu ra. Thực chất đây là những luận điệu nhằm cố tình che giấu bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghĩa Mác. Bởi lẽ:

Thứ nhất, mặc dù mức sống được nâng lên, giai cấp công nhân đã có được bảo đảm các tư liệu tiêu dùng như: nhà cửa, xe cộ, các thiết chế văn hóa... nhưng đó chỉ là tư liệu tiêu dùng và tư liệu sinh hoạt chứ không phải tư liệu sản xuất, họ vẫn là những người làm thuê, phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.

Thứ hai, hiện nay chủ nghĩa tư bản tiến hành đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp tư nhân, nhiều công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu trong doanh nghiệp nhưng có thể thấy rằng tỷ trọng cổ phần, cổ phiếu của họ rất nhỏ so với số cổ phần, cổ phiếu mà giai cấp tư sản đang nắm giữ. Vì vậy, địa vị làm thuê của họ cũng không thay đổi về mặt bản chất và bản thân người công nhân vẫn bị chi phối bởi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chẳng hạn, ở Mỹ có 35 - 45 triệu người lao động làm công có cổ phiếu trong các công ty (năm 2019), nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Việc các chủ tư bản bán cổ phần, cổ phiếu cho công nhân một mặt giúp nhà tư bản huy động được các nguồn lực để mở rộng sản xuất; mặt khác, đây là biện pháp hữu hiệu để buộc người công nhân phải lệ thuộc nhiều hơn nữa vào các nhà tư bản. Và như vậy, đã che dấu đi quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, người công nhân sẽ hạn chế đấu tranh đòi quyền lợi, tạo thuận lợi cho nhà tư bản quản lý, điều hành. Do đó, việc cho rằng nhờ tham gia vào doanh nghiệp thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu đã làm cho địa vị của công nhân đã thay đổi, công nhân đã trở thành một người chủ của doanh nghiệp chỉ là ảo tưởng, phiến diện và sai lầm.

Thứ ba, chủ nghĩa tư bản hiện đại có nhiều sự điều chỉnh, thích nghi nhưng bản chất bóc lột vẫn không thay đổi, mà chỉ thay đổi hình thức bóc lột theo hướng ngày càng tinh vi hơn, khôn khéo hơn với mức độ gay gắt hơn. Hiện nay, tỷ suất bóc lột giá trị thăng dư trong các ngành công nghiệp ở Mỹ và Tây Âu trung bình là 300%, cá biệt có những lúc lên tới 5.000% như tại công ty Microsoft. Vì vậy, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có những thay đổi nhưng giai cấp công nhân vẫn là những người làm thuê cho giai cấp tư sản và vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư với tỷ suất rất cao.

Thêm nữa, trong lòng xã hội tư bản, các mâu thuẫn nội tại không hề mất đi mà vẫn biểu hiện gay gắt. Kinh tế thiếu ổn định, khủng hoảng kinh tế vẫn có tính chu kỳ, quân sự hóa nền kinh tế, chạy đua vũ tranh tràn làn, tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân biệt đối xử trong xã hội ngày càng lớn. Theo nghiên cứu thường niên của tổ chức từ thiện toàn cầu Oxfam công bố tại Diễn Dàn Kinh tế Thế giới tại Davos, chỉ ra rằng khoảng cách giữa những người siêu giàu với phần còn lại của thế giới đã đạt tới một khoảng cách rất xa. Cụ thể, 1% dân số thế giới đang sở hữu khối tài sản gấp đôi gần 90% còn lại. Trong khi đó, có rất nhiều người nghèo khổ, thất nghiệp, vô gia cư... ở các nước tư bản.

Tất cả điều đó đã nói lên bản chất của chủ nghĩa tư bản ngày nay hay chỉ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là phiến diện, phản động và không hề thay đổi, vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn là quan hệ thống trị, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu”. Do đó, giai cấp công nhân vẫn có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động xóa bỏ áp bức, bất công để xây dựng xã xã hội chủ nghĩa mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.

NVB41 - PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG “VIỆT NAM ĐÁNH ĐỔI MÔI TRƯỜNG LẤY PHÁT TRIỂN KINH TẾ”

 

Hiện nay trên các trang mạng, các diễn dàn kinh tế không chính thống xuất hiện các quan điểm cho rằng: “Các quan chức cộng sản ở Việt Nam… đã đánh đổi môi trường lấy kinh tế”. Nguy hiểm hơn, các bài viết còn trắng trợn nhận định và quy kết vô căn cứ: “Hậu quả là một mai khi chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản cai trị sụp đổ thì đất nước này, dân tộc này chỉ còn lại một bãi Rác và một đống Nợ”. Qua đây cho thấy, mục tiêu cuối cùng của luận điệu xuyên tạc, thù địch này là hòng làm giảm uy tín của Đảng thông qua lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường (BVMT) và hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Trước hết, phải khẳng định rằng, môi trường và vấn đề BVMT luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Trong các Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng luôn dành dung lượng xứng đáng để chỉ đạo công tác BVMT, gắn BVMT với phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, Đảng cũng đã ban hành một số Nghị quyết chuyên đề chỉ đạo việc BVMT như: Nghị quyết 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 09-NQ/TW, tháng 2/2007 của Hội nghị Trung ương 4 Khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… Mới đây, trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ mục tiêu của bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là: “bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”.Thứ hai, Điều 43, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã khẳng định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quốc hội Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về BVMT khá đầy đủ và đồng bộ. Tính đến nay, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở nước ta đã ban hành gần 600 văn bản có liên quan đến BVMT. Sau Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, hàng loạt các văn bản Luật liên quan đến BVMT cũng được ban hành như: Luật Khoáng sản năm 1996; Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Đất đai năm 2003; đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 sửa đổi và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật. Đây là cơ sở pháp lý nhằm BVMT trong từng dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, Chính phủ Việt Nam triển khai và thực hiện quyết liệt các chương trình, kế hoạch về BVMT. Ngay từ năm 1991, khi nền kinh tế còn rất khó khăn, nhưng Việt Nam đã thông qua “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2000”. Năm 1992, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janero (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi trường Chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, trên cơ sở đó cam kết xây dựng Chiến lược phát triển bền vững quốc gia và chương trình nghị sự 21 địa phương; Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 622/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Sau gần 5 năm thực hiện chương trình nghị sự 2030, thứ hạng của Việt Nam về chỉ số phát triển bền vững liên tục tăng lên và xếp thứ 49/166 quốc gia xếp hạng vào năm 2020. Cuối tháng 10, đầu tháng 11/2021, Chính phủ Việt Nam đã tham dự Hội nghị COP26 tại Glassgow (Scotland, Vương quốc Anh). Tại Hội nghị, Việt Nam đã tiên phong trong bảo vệ môi trường khi cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050, giảm 30% lượng phát thải khí metan gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030.

Thứ tưviệc thực hiện chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường ở Việt Nam thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu, đó là: “Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được tiếp tục hoàn thiện và tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả… Chủ động triển khai thực hiên Chương trình quốc gia và nhiều giải pháp về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai đạt hiệu quả bước đầu… Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh”.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã “Triển khai Chương trình mục tiêu ứng phó với bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh, chủ động cam kết giảm thiểu phát thải nhà kính. Đã xây dựng Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước biển dâng, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn và Đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây là những kết quả thiết thực, đáng khích lệ trong công tác BVMT.

Những kết quả cả về lý luận và thực tiễn BVMT của Việt Nam nêu trên đã làm sáng rõ quan điểm về BVMT và quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân là mục tiêu hàng đầu”; đây cũng là bằng chứng thuyết phục nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam không quan tâm tới BVMT, không chú ý tới môi trường sống của người dân, là “đánh đổi môi trường lấy kinh tế”…

Trong thời gian tới, để có môi trường sống trong lành, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”; đồng thời, “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng trồng rừng”; “Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị”; “Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin”.

 

NVA41 - PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC 

 

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục, lâu dài, nhằm mục tiêu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo vệ vững chắc lợi ích của quốc gia, dân tộc.


          Thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh với quyết tâm cao, hành động quyết liệt ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Qua công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng ta đã kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh đối với nhiều tổ chức và cán bộ, đảng viên (trong đó có cả cán bộ, lãnh đạo cấp cao) biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc có vi phạm liên quan đến các vụ án tham nhũng, tiêu cực, vi phạm các nguyên tắc của Đảng, quy định của pháp luật, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được Nhân dân và các quốc gia có quan điểm tiến bộ hết sức ủng hộ, đánh giá cao; niềm tin của quần chúng Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước không ngừng được củng cố và nâng cao.

Việc đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã trở thành xu thế, xác định đây là con đường đúng đắn nhất để xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Song, các thế lực thù địch, phản động cũng coi công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta là mục tiêu để công kích, xuyên tạc, chống phá nhằm gây mâu thuẫn, mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, hạ uy tín của các cơ quan Đảng, Nhà nước, phục vụ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam.

Tiếp tục chiêu trò chống phá Việt Nam, các trung tâm phá hoại tư tưởng, các đối tượng phản động, chống đối đã đăng tải hàng loạt các bài viết, video clips có nội dung xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Điển hình, ngày 21/6/2024, trang “BBC NEWS TIẾNG VIỆT” (trang thường xuyên đăng tải, phát tán bài viết có nội dung chống phá Việt Nam) đã đăng tải bài viết “Ông Đinh Tiến Dũng mất chức, điều gì đang xảy ra tại Bộ Chính trị?”. Không ngoài dự đoán, nội dung chủ yếu của bài viết trên là bịa đặt, bóp méo sự thật, gán ghép, dựng chuyện, đưa ra những bình luận với quan điểm và cách nhìn tiêu cực, phiến diện về lý do ông Đinh Tiến Dũng, cho rằng: “Không còn là chống tham nhũng, khái niệm “đốt lò” hay chống tham nhũng” giờ đã không còn đúng như tên gọi và mục đích ban đầu nữa, nó đang được sử dụng vào mục đích cạnh tranh quyền lực, các phe nhóm đã lợi dụng để phục vụ cho lợi ích của mình, trong bối cảnh công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng 14 đang bước vào giai đoạn quyết liệt…”. Những luận điệu trên là vô căn cứ, sai sự thật và không thể chấp nhận được; chúng cố tình hướng lái vấn đề nhằm tạo dư luận xấu trong dư luận xã hội, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ, làm xói mòn niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Sự thật về việc ông Đinh Tiến Dũng được Bộ Chính trị cho thôi giữ các chức vụ

Trên cương vị Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài Chính nhiệm kỳ 2016 - 2021, ông Đinh Tiến Dũng đã có nhiều nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành côn tác của ngành Tài chính và đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, ông Đinh Tiến Dũng chịu trách nhiệm của người đúng đầu khi để xảy ra nhiều vi phạm tại Bộ Tài chính; thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo để Ban Cán sự đảng Bộ Tài Chính         , Bộ Tài chính và một số tổ chức, cá nhân có nhiều vi phạm, khuyết điểm trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, Quy chế làm việc, công tác tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách, thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động phát hành, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, dư luận xấu, làm giảm quy tín của tổ chức đảng và cơ quan quản lý nhà nước.
Nhận thức rõ trách nhiệm với Đảng và Nhân dân trước những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, ông Đinh Tiến Dũng đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công, nghỉ công tác và nghỉ hưu. Do đó, Bộ Chính trị đã đồng cho ông Đinh Tiến Dũng thôi giữ các chức vụ và nghỉ công tác theo nguyện vọng.
          Việc Bộ Chính trị đồng ý cho ông Đinh Tiến Dũng nghỉ công tác được thực hiện đúng quy định của Đảng, thể hiện sự nghiêm khắc, quyết tâm cao của Đảng đối với việc xử lý cán bộ, đảng viên có vi phạm, hạn chế khuyết điểm theo phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, nhằm mục tiêu xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, gương mẫu đi đầu trong thực hiện chủ trương, chính sách, là đại biểu trung thành lợi ích của quốc gia, dân tộc.
         

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...