Chiến thắng 30-4-1975 là một sự kiện trọng đại
có tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc trong thế kỷ XX. Đó là
thắng lợi của chính nghĩa trước bạo lực, cường quyền; là biểu tượng sáng ngời
về ý chí bất khuất, khát vọng hòa bình, tự do của dân tộc Việt Nam và nhân loại
tiến bộ. Đó là lịch sử, mà lịch sử chỉ hiện hữu sự thật, không thế lực thù địch
nào có thể xuyên tạc.
Chiến thắng 30-4 đã
qua đi gần 42 năm. Nhưng ý nghĩa, giá trị to lớn của nó vẫn tồn tại mãi với
thời gian, nhất là đối với các dân tộc đã và đang nỗ lực đấu tranh vì sự tiến
bộ, văn minh, hạnh phúc. Ca ngợi, đánh giá tích cực đối với sự kiện này, luôn
là chiều hướng chủ đạo, là điều được thế giới quan tâm, thừa nhận trong
suốt những năm qua. Nhưng nực cười thay, bên cạnh sự đánh giá khách quan, trung
thực đó, vẫn còn những tiếng nói lạc lõng cố tình phủ định sự thật lịch sử với
động cơ, mục đích đen tối, định kiến, thù địch. Không những tìm cách cào bằng
vai trò của các bên tham chiến, họ còn trắng trợn ngụy biện, đổi trắng thay đen
giữa kẻ đi xâm lược đã từng gây vô vàn tội ác cho dân tộc Việt Nam với những
người đã không tiếc máu xương hy sinh vì hoà bình, độc lập, tự do và thống nhất
đất nước.
Chiến tranh đã lùi xa,
sự phân định giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa chiến thắng và thất bại đã rõ
ràng. Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của nhiều
quốc gia; trong đó, có các quốc gia từng trực tiếp hoặc tham gia chiến tranh
xâm lược ngày đó, nay cùng hợp tác, phát triển. Thế nhưng, ở nơi này hay nơi
khác, trong một thiểu số nào đó, mỗi khi đến dịp 30-4, họ đều tìm cách khuấy
đảo lên sự thù hận với các lý lẽ, luận điệu hoàn toàn phi lý. Gần đây, người ta
thường thấy không ít sự ngụy biện, sống sượng xung quanh vấn đề tính chất cuộc
chiến tranh. Sự can thiệp trắng trợn, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ vào chủ quyền
của dân tộc Việt Nam được coi là một hành động để bảo vệ nền dân chủ. Những người
theo chân Mỹ chia cắt đất nước, tàn sát đồng bào mình được coi là một “sự lựa
chọn chính trị khác”, vì một “lý tưởng khác”. Còn có cả sự đặt điều lấp liếm
hành động xâm lược, rằng: miền Bắc xâm lược miền Nam hay cuộc chiến tranh ở
Việt Nam từ 1954 đến 1975 chỉ là nội chiến. Có người vì “thương xót” cho hàng
triệu sinh linh đã ngã xuống trong chiến tranh còn cho rằng: làm gì phải phát
động chiến tranh, chỉ cần đợi đến lúc nào đó thực dân, đế quốc rồi cũng phải
trả lại chủ quyền đất nước, v.v. Thật lố bịch! Sự ngụy biện tùy tiện, đổi trắng
thay đen còn diễn ra ở một số người tự xưng là “có tâm với nước, với dân”, tuy
nhiên chân lý chỉ có một. Lịch sử và sự kiểm nghiệm lịch sử là thước đo chân lý
chuẩn xác nhất, bác bỏ mọi xuyên tạc.
Ngược dòng lịch sử sẽ
thấy, một sự thật hiển nhiên là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Mỹ khởi
xướng, với sự tiếp tay, phản bội dân tộc của ngụy quyền Sài Gòn đã thất bại
thảm hại vào tháng 4-1975 là một tất yếu không tránh khỏi. Nguyên nhân cơ bản,
sâu xa nhất dẫn tới thất bại, trước hết, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa,
vô cùng tàn bạo. Từ lâu, Mỹ đã coi miền Nam Việt Nam là địa bàn chiến lược, để
ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á. Họ cần có một chính
phủ chống Cộng, biết nghe lời và phục vụ đắc lực cho mưu đồ bá chủ thế giới.
Thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông dương,
trong khi Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng theo đuổi các giải pháp
hòa bình, thì ngay từ đầu, Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm, sau đó là chế độ Nguyễn
Văn Thiệu, đã rắp tâm tìm mọi cách chia cắt, phá hoại công cuộc hòa bình, thống
nhất đất nước. Các yêu cầu đàm phán, tiến tới Tổng tuyển cử, thống nhất hai
miền Nam - Bắc, liên tiếp được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra và
đều bị từ chối. Thay vào đó là các chiến dịch lê máy chém khắp miền Nam, đàn áp
khốc liệt những người kháng chiến cũ, những đảng viên Cộng sản, những ai mong
muốn thống nhất đất nước. Tiếp đó là các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt” ,
“Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” tàn phá miền Nam.
Đã từng phải chịu đựng
những thử thách, hy sinh bởi chiến tranh, chia rẽ vùng miền và sự thống trị của
ngoại bang, nên hơn ai hết, người dân Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình,
độc lập và thống nhất đất nước. Nhân dân và chính phủ Việt Nam đã tranh thủ mọi
thời cơ để gìn giữ, bảo vệ những giá trị đó, nhưng Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã
chà đạp, phá hoại những nguyện vọng thiêng liêng chính đáng của mình, buộc
chúng ta không còn lựa chọn nào khác phải tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Trong hơn 20 năm, vượt qua vô vàn gian khổ, hy sinh,
dân tộc Việt Nam đã đương đầu thắng lợi trước một thế lực đế quốc có tiềm lực
kinh tế, quân sự hùng hậu hàng đầu thế giới. Có nhiều nhân tố đã góp phần làm nên
sự tích thần kỳ ấy; trong đó, việc phát huy cao độ truyền thống yêu nước và
giương cao ngọn cờ chính nghĩa, đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng,
khát vọng hòa bình, giải phóng dân tộc của nhân dân ta là một trong những
nguyên nhân mang tính quyết định.
Cuộc chiến tranh do Mỹ
và tay sai tiến hành ở Việt Nam được cho là phi nghĩa, trái đạo lý, bị lên án
không phải chỉ vì thực chất mục đích của nó, vì sự hao người, tốn của, mà còn
bởi nó đã thể hiện rõ tính chất tàn bạo, vô nhân tính.Chiến thắng 30-4-1975 cho
thấy một chân lý: không phải bao giờ sức mạnh của cường quyền bạo lực và đồng
tiền cũng đè bẹp được chính nghĩa. Đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất
đất nước, Việt Nam là đại diện chân chính cho chính nghĩa, cho nên trong suốt
cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình ủng
hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế và lực lượng tiến bộ,
yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Những sự ngụy biện,
xuyên tạc thực tế, nhằm phục vụ cho một mưu đồ nào đó, không những chỉ là ảo
tưởng, mà còn là tội lỗi với lịch sử, với các thế hệ ông cha đã không tiếc máu
xương hy sinh cho sự yên bình và hạnh phúc của đất nước này. Bất cứ dân tộc nào
có tự trọng trên thế giới, đều có quyền tự hào về truyền thống lịch sử đánh
giặc ngoại xâm, gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc của mình. Chiến thắng 30-4-1975 đã kết
thúc sự chia rẽ Bắc - Nam, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài trên 100
năm của thực dân, đế quốc trên đất nước ta, nước nhà độc lập, non sông thu về
một mối, đã trở thành một trang vàng chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân
tộc để các thế hệ hôm nay và mai sau gìn giữ và phát huy./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét