Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên
ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn
thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Thời gian đã qua đi hơn 2/3
thế kỷ, nhiều chi tiết nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ
trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến
lược của Người thể hiện trong Tuyên ngôn.
Tuyên ngôn Độc lập ngày
2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn
sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp
cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của
các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Tuyên ngôn Độc lập là một
văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ
thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững
chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế
giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển. Nội dung của
Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu,
làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý xấu:
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu
trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Điều này cần phải hiểu và
lý giải rõ:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã
tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của
một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành
độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là
những thành quả văn hoá của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người,
trong đó đã khẳng đinh những quyền cơ bản của con người. Đó là "quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” … “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó
là những lẽ phải không ai chối cãi được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã
được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ sự
kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và
ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Hai là, trên nền tảng và
tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc
Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển
của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải
phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên
và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ
yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng
Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.
Ba là, đi sâu nghiên cứu
hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên
ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận
điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình
bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản,
có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời
đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để
giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình. Như vậy, có thể thấy với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh
và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên
thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến
pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực
tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của
nhân loại. Đã 77 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng
trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Để tận dụng,
phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của
nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
bài viết rất thiết thực
Trả lờiXóa