Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2022

NVH39 - LỢI DỤNG TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẢNG NHÀ NƯỚC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Xã hội hiện đại, báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước và tiếng nói của nhân dân, là công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng, được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” ra sức nguỵ biện để đổi trắng thay đen, nói không thành có, có thành không về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, họ triệt để lợi dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Để đạt được mục đích, họ thành lập một số tổ chức nhân danh báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project 88”… để đấu tranh cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”, đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo… Sâu xa hơn là lợi dụng danh nghĩa đấu tranh “tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối lật đổ chính quyền.

Cần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.

Tuyên ngôn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được Nhà nước Việt Nam tuân thủ, kế thừa, phát triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh. Ngược dòng lịch sử, ngày 9/11/1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí sửa đổi năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”.

Điều 13 chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Những luận điệu xuyên tạc, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân thì làm sao có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện tiếng nói dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.

Hiển nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không phải là tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán những ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.

NVH39 - “VIỆT TÂN” GHEN TỴ VỚI CÔNG CUỘC CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA

 

Tiếp tục lợi dụng công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, vừa qua “Việt Tân” lại tiếp tục đăng tải bài viết của Diễm Quỳnh kho cho rằng “càng chống tham nhũng, tham nhũng càng nhiều” khi lấy những số liệu về kết quả công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua để quy chụp cho tình trạng tham nhũng ngày càng gia tăng cũng như cho rằng đó là bản chất của chế độ ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là chiêu trò mà bấy lâu nay Việt Tân cũng như các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí đã tuyên truyền, đặc biệt là trong những thời điểm chính trị quan trọng của đất nước hoặc khi lực lượng chức năng bắt, xử lý các trường hợp có sai phạm về tội phạm tham nhũng, lãng phí ở các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương.

Việt tân và các cá nhân, tổ chức thiệu thiện chí đã phủ nhận những kết quả về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta khi cho rằng, Đảng, Nhà nước đã phát động chống tham nhũng, suy thoái nhưng đều thất bại, không thành công, tệ nạn ngày càng gia tăng. Từ đó, số này đưa ra quan điểm, chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực, kêu gọi phải thay đổi thể chế thì mới có thể chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất.

Vậy nhưng trên thực tế, Tổ chức Minh bạch quốc tế (AI) đã từng cho rằng tham nhũng là tệ nạn nhức nhối, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong số đó, đa số là các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo, tam quyền phân lập, do giai cấp tư sản lãnh đạo. Một số quốc gia có biểu hiện nguy hiểm khi tình trạng tham nhũng đã leo đến tận các nguyên thủ quốc gia như Hàn Quốc, Brazil Colombia, Malaysia; một số quốc gia thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng” đều theo thể chế đa đảng.

Đảng, Nhà nước ta từ trước đến nay luôn có quyết tâm chính trị cao và kiên quyết phòng, chống, khắc phục tham nhũng, suy thoái, biến chất trong đảng viên và cán bộ Nhà nước. Đảng, Nhà nước ta luôn coi tham nhũng, tiêu cực là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại ra khỏi đời sống xã hội. Đảng ta cũng xác định phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng. Kết hợp giữa xây và chống, phòng ngừa gắn liền với xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam.

 

NVH39 - ĐÂU MỚI LÀ NỮ HOÀNG?

 

Ngày 8/9/2022 vừa qua, Cung điện BookingHam thông báo Nữ Vương Anh Elizabeth II đã qua đời. Sự ra đi của bà khiến một số người nổi tiếng trong giới trẻ Việt Nam bày tỏ niềm xót thương vô bờ bến. Cụm từ “tạm biệt Người” được viết nên không một giây suy nghĩ. Trong cuộc đời tôi chỉ dám viết hoa chữ “Người” khi nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số nhà lãnh đạo vĩ đại có công trong việc giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân đế quốc. Đồng ý rằng nữ vương Elizabeth II đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trên cương vị đứng đầu đế quốc Anh. Nhưng bà ấy chỉ vĩ đại với nước Anh còn với dân tộc Việt Nam và hàng chục nước thuộc địa Anh thì không. Chúng ta cần phải hiểu lịch sử trước khi rơi nước mắt khóc lóc

Trong khi nhiều bạn trẻ Việt quay sang tiếc thương cho bà Nữ hoàng Anh vừa quy tiên cách đây cả vạn cây số, thì ở Việt Nam có hàng trăm ngàn nữ hoàng mà chưa hề thấy các bạn tỏ lòng kính trọng, thương xót. Đó là những bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã hi sinh máu thịt của mình cho nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Như tấm gương của mẹ Nguyễn Thị Thứ, người mẹ có nhiều con cháu hy sinh nhất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nuôi con cháu trong cảnh lận đận, đói nghèo nhưng khi Tổ quốc cần, mẹ Thứ động viên, tiễn các con ra chiến trường. Mẹ Thứ có 12 người con (11 trai và 1 gái) thì 9 con trai hy sinh. Con đầu và cũng là con gái duy nhất - bà Lê Thị Trị là thương binh, cũng được trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi có chồng và 2 con gái là liệt sĩ. Như vậy gia đình mẹ Thứ có 12 liệt sĩ.

Hiếm có người mẹ nào trên thế giới này mang nhiều nỗi đau và sự hy sinh cho Tổ quốc như mẹ Thứ. Trong chống Pháp và Mỹ, mẹ Thứ lần lượt nhận 9 giấy báo tử của 9 con trai và nhận tin con rể cùng 2 cháu ngoại hy sinh.

Sự mất mát, hy sinh của gia đình mẹ Thứ không có bút mực nào diễn tả hết. Năm 1998 khi một đoàn khách nước ngoài về thăm mẹ Thứ, một nhà báo, cựu chiến binh người Hàn Quốc đã hỏi mẹ: “Thưa bà, với quan niệm người Á Đông, con cái là phúc lộc, là tài sản. Khi người con thứ tư, thứ năm tử trận, tại sao bà vẫn tiếp tục động viên những người con khác ra mặt trận”?

Mẹ Thứ điềm tĩnh trả lời: “Ở nước tôi, Cụ Hồ đã dạy là “Không có gì quý hơn độc lập tự do” nên cứ là người Việt Nam, trong đó có các con, các cháu tôi đều sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để giành lấy độc lập, tự do. Nếu còn chiến tranh, các con tôi, rồi cháu tôi vẫn sẽ tiếp tục ra trận để giành độc lập, tự do, bình yên mà hôm nay chúng tôi đang hưởng”.

Đây, nữ hoàng của dân tộc Việt Nam là như thế. Và các mẹ xứng đáng là Nữ hoàng của nhân dân các nước thứ 3, các nước bị các nước dân tộc “thượng đẳng” áp bức, bóc lột suốt hàng trăm năm./.

NVH39 - NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN “XÂM LĂNG VĂN HÓA” TRONG CHIẾN LƯỢC“DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch và cơ hội chính trị không từ một thủ đoạn nào; trong đó, truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại làm băng hoại những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc, từng bước làm chệch hướng đời sống văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam luôn được chúng coi trọng. Thực chất đây là hình thức “xâm lăng văn hóa” rất nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác và chủ động đấu tranh.

Mục tiêu “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch là tiêm nhiễm văn hóa xấu độc, làm xói mòn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; đồng thời, từ lĩnh vực văn hóa chuyển hóa dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị, phản bội lại Đảng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đối tượng chúng hướng tới là nhân dân, trước hết là lớp trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, bản lĩnh chưa vững vàng, còn ít kinh nghiệm sống. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu trò thâm hiểm; đặc biệt là chiến thuật “tâm công” theo phương châm “mưa dầm thấm lâu” để đánh vào lòng người. Chúng lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông để truyền bá các sản phẩm văn hóa xấu độc, ngoại lai cùng những hành vi phản nhân văn, phi tiến bộ để tác động vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất tầm thường của mỗi người. Qua đó, từng bước làm thay đổi các thang giá trị xã hội, đạo đức, lối sống, làm cho một số người sao nhãng nghĩa vụ, trách nhiệm; khơi dậy bản năng thấp hèn, chạy theo lạc thú, lợi ích vật chất, chỉ lo “cái tôi” mà quên đạo nghĩa, quay lưng lại với truyền thống và những giá trị hiện hữu tốt đẹp của dân tộc

Cùng với công kích chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc hiện nay; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước, bán nước. Chúng tuyên truyền các giá trị văn hóa phương Tây; phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa - văn nghệ và đòi tách lĩnh vực này ra khỏi đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Đồng thời, đề cao chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội trong văn hóa - văn nghệ; hạ bệ những tác phẩm đỉnh cao chứa đựng sâu sắc tính nhân văn, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta,… tiến tới phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa - văn nghệ.

Đặc biệt là, các thế lực thù địch còn dùng mọi thủ đoạn để kích động, lôi kéo, lung lạc đội ngũ nhà văn, nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật; thực hiện âm mưu ly gián về nhân tâm, tư tưởng và chia rẽ về tổ chức, lôi kéo văn nghệ sĩ đi theo các trào lưu tư tưởng văn hóa phương Tây, đào sâu “tự do, dân chủ” trong sáng tác, thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập” để đối trọng với Hội Nhà văn Việt Nam, v.v. Thậm chí, họ còn dùng những tác phẩm văn học, nghệ thuật để tạo cớ gây áp lực đòi “nhân quyền”, kích động bạo lực và lối sống thực dụng, dung tục, hòng làm phai mờ những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là mưu đồ rất thâm độc của các thế lực thù địch khi thực hiện “xâm lăng văn hóa” đối với nước ta.

 

 

 

 

 

 

NVE39 - ĐẤU TRANH BẢO VỆ UY TÍN, THANH DANH CỦA ĐẢNG

 

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách chống phá, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, thanh danh của Đảng, nhất là dịp diễn ra các sự kiện lớn của đất nước, nhằm tạo tiếng vang, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội và cộng đồng quốc tế.

Thời gian qua, lợi dụng, khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, chống phá, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước,... là một trong những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch. Một mặt, họ phủ nhận và cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; mặt khác tăng cường cổ súy cho “xã hội dân sự”, kêu gọi thành lập các tổ chức chính trị đối lập, tạo tiền đề thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

Đặc biệt, vào dịp diễn ra các sự kiện chính trị lớn, như: Đại hội Đảng toàn quốc, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, bầu cử đại biểu Quốc hội,… chúng tăng cường xuyên tạc nội dung dự thảo các văn kiện Đại hội, nghị quyết các hội nghị; bịa đặt, bôi nhọ đời tư, uy tín, danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là các đồng chí được đề cử, ứng cử vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa mới.

Với phương châm: “mưa dầm thấm lâu”, hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã, đang trở nên vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng tới uy tín, thanh danh và nền tảng tư tưởng của Đảng, giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Do đó, đấu tranh ngăn chặn, phản bác hoạt động chống phá, bảo vệ Đảng, chế độ cần được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ; trong đó, tập trung thực hiện một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với nhiệm vụ quan trọng này.

Chúng ta biết, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trước đây, hiện nay và sau này sẽ không bao giờ thay đổi, thậm chí còn ráo riết và ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Điều đó cho thấy, bảo vệ nền tảng tư tưởng và uy tín, thanh danh của Đảng là vấn đề cốt lõi, quan trọng bậc nhất đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ, cũng như vận mệnh chính trị của đất nước, dân tộc.

Hai là, đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, tư tưởng, lý luận.

Các cấp, ngành, địa phương, cả hệ thống chính trị, nhất là cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền thông tăng cường đổi mới phương thức thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước; vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,… làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhận thức rõ bản chất, mục đích của những thông tin, luận điệu xuyên tạc, chống phá.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Thực tế cho thấy, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là một trong những nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, sai lầm, vi phạm pháp luật, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cao cấp diện Trung ương quản lý, đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. 

Đấu tranh với hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị bảo vệ nền tảng tư tưởng, uy tín, thanh danh của Đảng là “cuộc chiến” đầy cam go, thách thức, song với sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta nhất định thành công, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

NVE39 - BỆNH NHÂN COVID-19 NẶNG VÀ TỬ VONG ĐANG TĂNG

 

Với sự lưu hành của nhiều biến thể phụ, số ca mắc và t.ử vong do COVID-19 đang gia tăng, Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế chỉ đạo quyết liệt việc tiêm vắc-xin phòng bệnh.

Bộ Y tế cho biết số bệnh nhân COVID-19 nặng và t.ử vong có xu hướng tăng. Trong hơn 1 tháng qua, có ngày nước ta ghi nhận tới 5 bệnh nhân t.ử vong. Số ca nặng dao động trong khoảng 120-190 ca. Riêng ngày 21-9, có thêm 2.287 ca mắc và 4 ca t.ử vong.

Đồng nhiễm COVID-19 và sốt xuất huyết

Tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương (cơ sở 2), số bệnh nhân COVID-19 đang điều trị khoảng 150 ca/ngày, trong đó có nhiều trường hợp rất nặng được chuyển đến từ các cơ sở y tế tuyến dưới.

Theo bác sĩ Phạm Văn Phúc, Phó trưởng Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương, khoa hiện có hơn 40 bệnh nhân COVID-19 nặng đang điều trị tại khoa, trong số này hơn 20 ca nặng, nguy kịch phải thở máy; số còn lại được can thiệp ôxy các mức. Đáng chú ý, có khoảng 20% bệnh nhân nặng, nguy kịch chưa từng tiêm vắc-xin COVID-19, chủ yếu rơi vào các ca cao tuổi, người mắc các bệnh lý suy giảm miễn dịch như HIV, bệnh nền... "Nếu thời điểm tháng 6 và 7, mỗi ngày Khoa Hồi sức tích cực tiếp nhận từ 5-7 ca nặng thì những ngày gần đây, con số này tăng tới 10 ca/ngày" - bác sĩ Phúc nói. Trong khi đó, tại Khoa Virus - ký sinh trùng, mỗi ngày có thêm khoảng 20 ca bệnh.

Theo nhiều bác sĩ điều trị, gần đây, lượng bệnh nhân COVID-19 nặng nhập viện tăng rõ rệt so với tháng trước. Tại Bệnh viện E (Hà Nội), bác sĩ Vũ Phương Nga, Khoa Bệnh Nhiệt đới, cho biết ngày nào khoa cũng ghi nhận 1 bệnh nhân mắc COVID-19 nặng, suy hô hấp phải nhập viện. Không chỉ ghi nhận bệnh nhân mắc COVID-19 tăng mà có nhiều trường hợp bệnh nhân mắc COVID-19 đồng thời bị sốt xuất huyết.

Theo PGS-TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, dịch COVID-19 đang gia tăng trở lại. Số ca mắc được công bố mỗi ngày chưa phải là con số thực tế bởi nhiều trường hợp không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ nên không xét nghiệm hoặc một số trường hợp xét nghiệm dương tính cũng không khai báo. "Tại một số bệnh viện tuyến trung ương, có nhiều bệnh nhân nặng phải thở máy. Đây là dấu hiệu của sự bùng phát dịch trở lại" - ông Trần Đắc Phu nhận định.

PGS Phu cho rằng thời gian qua, miễn dịch cộng đồng đang giảm bởi đặc thù của miễn dịch COVID-19 khác với nhiều bệnh truyền nhiễm khác. Với COVID-19, sau lần mắc đầu tiên một thời gian, miễn dịch giảm dần nên nhiều người đã mắc bệnh lần 2. Kể cả khi tiêm đủ các liều vắc-xin cơ bản thì miễn dịch của vắc-xin cũng giảm trong vòng vài tháng, do đó cần tiêm các mũi nhắc lại.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương cho biết Tổ chức Y tế thế giới đánh giá thế giới vẫn trong giai đoạn đại dịch và chiến lược tiêm vắc-xin phòng COVID-19 vẫn hết sức quan trọng. Hiện nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới của Omicron như BA.4, BA.5, BA2.74, BA 2.12.1 với khả năng lây nhanh hơn biến chủng gốc. Trong khi đó, tiến độ tiêm chủng còn chậm, tỉ lệ tiêm vắc-xin COVID-19, nhất là tiêm cho trẻ em, còn thấp.

 

NVD39 - TRẦN VĂN THẤY CÂY MÀ KHÔNG THẤY RỪNG

 

        Trong những ngày cuối tháng 8 vừa qua, Trần Văn đăng bài viết “Cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín và chủ nghĩa mở rộng làm thuê” trên một trang web thiếu thiện chí với Việt Nam. Trong đó, Trần Văn đã lấy ví dụ một vụ việc đơn lẻ về một số người Việt Nam “xuất cảnh, sau đó nhập cảnh trái phép” từ Campuchia để đánh đồng, quy chụp toàn bộ hàng trăm nghìn lao động Việt Nam ra nước ngoài là “đi tha phương cầu thực dù biết đầy rẫy rủi ro, mất an toàn tính mạng”. Vậy thực sự bức tranh chung về xuất khẩu lao động của nước ta như thế nào? Có giống như những gì Trần Văn đã đề cập trong bài viết không.

          Trần Văn lập luận rằng: cơ đồ của Việt Nam hiện nay chỉ là đưa đồng bào đi làm thuê bất chấp rủi ro bị lừa đảo về kinh tế, tính mạng bị đe dọa. Trong khi sự thực về vấn đề xuất khẩu lao động của nước ta suốt mấy chục năm qua đã đem lại tổng nguồn thu hàng chục tỉ USD cho hàng triệu cá nhân và gia đình những người có người xuất khẩu lao động. Trên thực tế, không mấy ai không biết đến những “làng tiền tỉ” với cả ngàn hộ gia đình trở nên khá giả nhờ có người thân đi lao động ở nước ngoài gửi tiền về để xây nhà to đẹp, mua xe máy, ô tô, nuôi con học hành đầy đủ… Với những cái tên mà người dân vẫn gọi vui là “làng lao động Hàn Quốc”, “làng lao động Đài Loan”…

          Trong những năm qua, số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng đều theo từng năm. Theo đó, lượng kiều hối do người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chuyển về trong nước hàng năm ước tính đạt từ 3 – 4 tỷ USD. Theo số liệu báo cáo từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội), trong 5 năm gần đây, mỗi năm tăng thêm khoảng 10.000 người. Với số lượng từ khoảng 500.000 người những năm 2010 đến nay tăng lên khoảng 580.000 người. Cụ thể, tại Đài Loan có 230.000 người; Nhật Bản có gần 230.000 người; Hàn Quốc có gần 50.000 người; Malaysia và các nước Đông Nam Á khoảng 30.000 người; khu vực Trung Đông – châu Phi và châu Âu mỗi nơi khoảng 15.000 người, còn lại ở một số nước khác.

          Người lao động Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực xây dựng, chế tạo, may mặc, giầy da, lắp ráp điện tử, giúp việc gia đình, chăm sóc người già, người bệnh, nông nghiệp, thủy sản,… Trong đó, phần lớn người lao động đi làm việc ở các nước Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc là những thị trường có thu nhập khá cao, khoảng 1.200 – 1.400 USD/tháng ở Hàn Quốc, Nhật Bản; 700 – 800 USD/tháng ở Đài Loan (Trung Quốc), châu Âu; 400 – 600 USD/tháng ở thị trường Trung Đông, châu Phi và Malaysia. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được các quốc gia, người sử dụng lao động đánh giá tốt: khéo tay, cần cù, khả năng nắm bắt công việc nhanh, ham học hỏi, sáng tạo, năng động, làm việc năng suất, chất lượng.

          Như vậy, chỉ làm phép tính sơ bộ cũng thấy được trong suốt mấy chục năm qua, lượng ngoại tệ do người Việt Nam lao động ở nước ngoài gửi về cho người thân trong nước đã có thể lên đến cả trăm tỉ USD. Việc đưa người lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài không chỉ góp phần giải quyết việc làm, mà còn giúp cải thiện đời sống của người lao động và gia đình. Bên cạnh đó, người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn nâng cao được trình độ kỹ năng nghề, tiếp thu được kiến thức, ngoại ngữ và tác phong làm việc tiên tiến từ nước ngoài, trở thành nguồn nhân lực quan trọng sau khi về nước.

          Trong bài viết, Trần Văn còn bịa đặt rằng: những lao động Việt Nam ở nước ngoài kêu cứu vì bị lừa gạt, quỵt tiền công, đánh đập… nhưng hệ thống công quyền Việt Nam không hề đoái hoài. Mặc dù, sự thật là các cơ quan ngoại giao Việt Nam đã tích cực phối hợp với các cơ quan hữu trách của các nước có người lao động Việt Nam để bảo hộ công dân. Cụ thể vừa qua, nhờ có kiến nghị từ cơ quan ngoại giao Việt Nam ở Campuchia, Campuchia đã bắt người quản lý sòng bạc Golden Phoenix, quốc tịch Trung Quốc, để thẩm vấn người đã ép các công nhân Việt Nam làm việc trái với ý muốn của họ.

          Tuy nhiên, vấn đề bảo hộ công dân đối với một số trường hợp người lao động Việt Nam xuất cảnh trái phép, đi nước ngoài làm thuê, bị ngược đãi bởi tội phạm người nước ngoài là rất khó khăn. Vì những người lao động đó là lao động trái phép tại nước sở tại, lại thường làm việc trong những nơi nhạy cảm mà tội phạm người nước ngoài khống chế, che giấu tung tích. Sự thật và những khó khăn đó thì ai cũng có thể  hiểu được, nhưng đối với Trần Văn thì cố tình phớt lờ hay giả vờ như không biết.

          Trần Văn đã cố tình không biết, không hiểu về vấn đề lao động xuất khẩu của Việt Nam từ bức tranh tổng thể cho đến các sự việc đơn lẻ. Hay có thể nói khác đi là Trần Văn đã lấy việc “có ít xít ra nhiều”, “chuyện không nói có”, bịa đặt, vu khống để làm cho người đọc hiểu sai bản chất, sự thật về vấn đề xuất khẩu lao động của nước ta cũng như vai trò quản lý của nhà nước Việt Nam hiện nay. Bài viết của y và đồng bọn đã bộc lộ dã tâm thâm độc, cố tình xuyên tạc sự thật, tuyên truyền, chống phá quan điểm của Đảng, Nhà nước ta với mục đích gây hoang mang, dao động về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, gây mất lòng tin của nhân đối với Đảng và Nhà nước./.

 

 

NVD39 - CẨN THẬN VỚI CHIÊU TRÒ DÙNG ẢNH “PHOTOSHOP” ĐỂ BÔI NHỌ LÃNH ĐẠO ĐẢNG NHÀ NƯỚC TA!!!

 

 Đọc trên mạng thấy nick Phóng viên tự do đăng dòng tweets "Chưa có thời kỳ nào mà lại nhục như cái thời kỳ này!" kèm theo đó là bức ảnh nguyên TBT Nông Đức Mạnh đang cúi đầu cung kính trước Hồ Cẩm Đào. Dòng tweets nhanh chóng thu hút sự chú ý đám dân chủ ba sọc bại não, đặc biệt là đám đang sống cuộc đời hủi nô vong quốc.

Thật ra chỉ những kẻ bại não, có chỉ số trì độn dưới mức khuyển mã mới tin bức ảnh kia là thật và người bình thường sẽ hiểu ngay đó là ảnh fake.

Người bình thường sẽ dễ đạng nhận ra bức ảnh này la fake bởi bố cục ảnh. Hồ Cẩm Đào đang duyệt đội danh dự thì hẳn nhiên sẽ không có bất kỳ ai có thể đứng vào hàng ngũ của đội danh dự, hoặc đứng vào vị trí như ông Nông Đức Mạnh đang đứng trong bức ảnh được. Hãy lắc củ sọ 7 lần và tra cứu trên Google để thấy điều này là hiển nhiên.

Tra cứu cũng thấy, lần đầu tiên bức ảnh này được sử dụng để hạ nhục TBT Nông Đức Mạnh và để bôi nhọ uy tín danh dự của Đảng và Nhà nước Việt Nam là ở trên trang phản động "Bauxite Việt Nam" vào hôm 14/2/2014 trong bài trong bài "Những thay đổi bất thường trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 35 năm qua" của tác giả Hoàng Mai. Trong bài, bức ảnh này được chú thích là "Quy phục" và sau đó nó được Nguyễn Quang Lập đăng tải lại trên Blog cá nhân có tên Quê Choa.

Trên thực tế, bức ảnh này cũng đã đánh lừa được nhiều con bò với hình hài linh trưởng có tư duy nhược tiểu.

Về mặt kỹ thuật, đây là bức ảnh đã bị photoshop để phục vụ mục đích đen tối. Bức ảnh này có nguồn gốc ở trang báo Trung quốc chụp cảnh TBT Trung Quốc Hồ Cẩm Đào duyệt đội danh dự và trong ảnh không hề có hình TBT Việt Nam Nông Đức Mạnh. Mời xem nguồn ở trang báo Trung quốc.

Việc các thế lực thù địch đăng tải các hình ảnh fake để vu cáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sach của Đảng và Nhà nước là chuyện không mới.

Hẳn các anh chị từng nghe đám mồm loa mép giải tuyên truyền rằng ông Võ Kim Cự có hộ chiếu Canada và hiện giờ đã định cư ở Canada để "trốn tránh trách nhiệm sau khi vơ vét của công"... Nhưng rồi, ông Võ Kim Cự lại xuất hiện ở quê nhà Hà Tĩnh và các cơ quan chức năng đã chỉ ra tấm hộ chiếu trên mạng là đồ giả. Thật tiếc, khi mà nhiều cán bộ, đảng viên, giảng viên Đại học, cán bộ hưu trí cho chuyện ông Võ Kim Cự trốn sang Canada là thật.

Việc xuyên tạc về chuyện TBT Nông Đức Mạnh "quy phục" Trung Quốc, hay chuyện ông Võ Kim Cự đi "định cư ở Canada" chỉ là những ví dụ nhỏ trong hàng trăm hàng ngàn ví dụ về chuyện cắt ghép, chế tác ảnh để đánh lừa người đọc với mục đích bôi bẩn chế độ. Trước đó, những cá chết tận đẩu đâu được chúng tha về để gán cho Formosa, những cây cầu tận Băng La Đet trơ móng bị chúng lôi về và gán cho là ở Tây Nguyên hùng vĩ ... đã được sử dụng để lừa bịp.

Lạ lùng là tầm này rồi mà đám dân chủ giẻ rách vẫn dùng bài mạt hạng dưới háng như thế để "mong thay đổi thể chế".

NVI39 - TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT NAM – LÀO “TÌNH SÂU HƠN NƯỚC HỒNG HÀ – CỬU LONG)

 

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Việt - Lào hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà- Cửu Long” nhằm khắc ghi và nhắn nhủ cho thế hệ mai sau biết về mối quan hệ đặc biệt này. Mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam bắt nguồn từ các điều kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử và truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước. Trong 60 năm qua (05/9/1962 - 05/9/2022), mối quan hệ gắn bó, thủy chung, vừa là đồng chí, vừa là anh em Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản và Chủ tịch Xu-pha-nu-vông đặt nền móng, các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp, trở thành mối quan hệ mẫu mực, thủy chung, hiếm có trên thế giới, là tài sản vô giá trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của hai đất nước, hai dân tộc.


Từ bao đời qua, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau như làng trên xóm dưới. Nhân dân Việt Nam thường nói láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau tương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam  bản cạy hươn khiêng (bản kề, nhà cạnh). Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là mối quan hệ nhân hòa, nảy sinh từ đời sống thích ứng với tự nhiên và dựng xây xã hội của biết bao thế hệ cộng đồng dân cư hai nước có nhiều lợi ích tương đồng, cao hơn hết là vận mệnh hai dân tộc gắn bó với nhau rất khăng khít và được phát triển thành quan hệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế.


Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành nên không hề do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện tượng nhất thời mà bắt nguồn từ vị trí địa - chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có cùng lợi ích cơ bản về độc lập, tự chủ và nguyện vọng chính đáng thiết tha về hòa bình và phát triển. Quan hệ truyền thống hữu nghị Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được nâng thành quan hệ đặc biệt kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó (tháng 10 năm 1930), Đảng được đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sau này.


Chúng ta thấy rằng, Việt Nam và Lào có vị trí địa - chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có nguồn trữ lượng dầu khí và tiềm năng tài nguyên khoáng sản khá dồi dào, một tiêu điểm của sự tranh giành lợi ích và ảnh hưởng giữa các nước lớn và các trung tâm quyền lực quốc tế. Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào là bức tường thành hiểm yếu, tạo điều kiện cho hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào-Việt Nam càng gắn bó keo sơn. Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con đường cách mạng vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào ngày càng hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


 Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội như mối quan hệ Việt - Lào.  Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít thách thức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NVI39 - “TỰ DO NGÔN LUẬN HAY” “NGÔN LUẬN TỰ DO” ĐỂ XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN

 

Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, người dân Việt Nam mới biết đến các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc bày tỏ tự do ngôn luận càng được chú trọng, bảo đảm hơn. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin, tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới. Đó là nội dung chính của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948. Hơn 70 năm tồn tại, Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, được đánh giá là bản tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã, đang và sẽ còn là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.


Với mỗi quốc gia, dân tộc, việc kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên ngôn có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... Nhưng có một điểm chung bắt buộc là, các quyền tự do ấy, phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và 30 của Tuyên ngôn quy định.


Ở Việt Nam, với tầm nhìn vượt thời đại, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sớm định hình tư tưởng về tự do ngôn luận. Trong Lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, năm 1921, Người đã tố cáo thực dân Pháp bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận đối với nhân dân An Nam: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ”. Vì vậy, trong Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi các Chính phủ trong khối Đồng minh nói chung và Chính phủ Pháp nói riêng thừa nhận các quyền cơ bản của nhân dân An Nam, trong đó có quyền tự do ngôn luận: “Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây: ... 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận”. Nhất quán yêu sách đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Chương trình Việt Minh, chủ trương: “Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc dân đại hội cử lên sẽ thi hành những chính sách sau này: ...2. Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc đặt ra”.


Hiện thực hóa tư tưởng về tự do ngôn luận, chỉ hơn 1 năm sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Thực thi Hiến pháp đầu tiên của nước ta nói chung và thực hiện quyền tự do ngôn luận nói riêng, chỉ 3 năm sau, trong bài Trả lời điện phỏng vấn của ông Walter Briggs, tháng 3-1949 đăng trên Báo Cứu quốc, số 1198, ngày 23-3-1949, Hồ Chí Minh đã khẳng định thành tựu quyền tự do ngôn luận rất rõ ràng: “Hỏi: Ở Việt Nam có tự do ngôn luận không (ngoài những ngôn luận phản quốc và thân thực dân Pháp)? Trả lời: Có”. Tiếp tục khẳng định quyền tự do ngôn luận trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc ngày 18-12-1959, Người tiếp tục khẳng định, quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân...


Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận là quyền này phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng là một giá trị cơ bản, quan trọng bậc nhất của quyền con người. Người giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”.


Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận, trong thời kỳ đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 1992 và năm 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận của công dân. Có thể hiểu rằng, tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội.


Thực tế, Việt Nam luôn phải đối mặt với các phần tử và thế lực thù địch cả ở trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực, mặt trận khác nhau, trong đó có mặt trận tư tưởng, thông tin. Các thế lực phản động, thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, vu khống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, phủ nhận các thành tựu đã đạt được, kể cả những thành tựu được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.


Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, để phù hợp với thực tiễn, trong bối cảnh “thế giới phẳng”, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nhiều đạo luật mới, đề cao, tôn trọng các quyền cơ bản, chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật Báo chí (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm. Kể từ khi hòa mạng internet toàn cầu ngày 1-12-1997, Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt,... của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội. Người dân Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào tất cả các trang web, báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn, đạo đức,... của mình trên mạng xã hội hằng giờ, hằng ngày, thông qua việc viết bài, đăng ảnh, video clip. Mỗi người dân Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới hay các trang cá nhân của mọi “công dân toàn cầu” mà không gặp phải bất cứ sự hạn chế, ngăn chặn, cấm đoán nào./.

NVI39 - “ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG”

 

Phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị - xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế - xã hội đất nước phát triển bền vững.

Phòng, chống tham nhũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Văn kiện Đại hội XIII đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng: “Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật. Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”. Đảng ta cũng có những bước phát triển mới về phòng, chống tham nhũng, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham nhũng: “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”.       

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, đài truyền hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện: “Nâng cao vai trò phát huy tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng”.  Bên cạnh đó, có nhiều điểm mới về vấn đề động viên, khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân dám tố cáo hành vi tham nhũng, cơ chế bảo vệ những người tố cáo hành vi tham nhũng tránh sự trả thù hoặc trù dập, đồng thời chỉ ra một số biện pháp về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát để phòng, chống tham nhũng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy phát triển”. Trong phòng chống tham nhũng phải kiên quyết, kiên trì và sử dụng tổng hợp nhiều phương thức, biện pháp mới mang lại hiệu quả. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”.  

 

 

 

 

 

 

 

NVC39 - CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH TIẾP TỤC CHỐNG PHÁ CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 

            Ngày 04/9/2022 VOA đăng tải bài viết XHCN còn có gì ‘ưu việt’ hơn... ‘bốc thăm’ không? Với bí danh Thiên Hạ Luận, nội dung bài viết đề cập sự kiện chính quyền Thủ đô Hà Nội quyết định tổ chức “bốc thăm” để kiểm tra sự trung thực của những viên chức có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập ở 12 đơn vị trực thuộc, bao gồm ba sở, ba quận - huyện, hai ban quản lý dự án, hai doanh nghiệp nhà nước, một viện, một trường.


          Để bạn đọc có góc nhìn khách quan, chính xác mục đích của việc tổ chức “bốc thăm” để kiểm tra sự trung thực của những viên chức có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập ở 12 đơn vị trực thuộc TP Hà Nội. Khẳng định đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của UBND TP Hà Nội, thực chất của việc làm này đó là lựa chọn ngẫu nhiên nhằm xác minh tính chính xác, trung thực, đầy đủ, rõ ràng các nội dung trong bản kê khai tài sản, thu nhập của người được xác minh tài sản, thu nhập; tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; xác minh thực tế tài sản, thu nhập của người được xác minh; khi cần thiết kiểm tra, xác minh các nội dung khác có liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập. Đồng thời, để TP đánh giá đúng thực trạng việc chấp hành các quy định của pháp luật về kê khai và kiểm soát tài sản, thu nhập; xác định tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kê khai và kiểm soát tài sản, thu nhập.


        Thông tin về vấn đề này: Đại diện Vụ Pháp chế (Thanh tra Chính phủ) cho rằng việc TP Hà Nội triển khai kế hoạch bốc thăm ngẫu nhiên với cán bộ để xác minh tính trung thực trong kê khai tài sản là thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Trong các quy định có nhiều hình thức để xác minh tính trung thực của cán bộ trong kê khai tài sản như xác minh theo đơn tố cáo, phản ánh hay xác minh do yêu cầu của công tác cán bộ. Còn kế hoạch của Hà Nội là xác minh ngẫu nhiên, được thực hiện hàng năm, theo một tỉ lệ nhất định. Điều này đảm bảo sự công bằng, đồng thời làm cho người thuộc diện kê khai tài sản phải luôn có ý thức về việc kê khai sao cho đúng. Bởi vì việc xác minh ngẫu nhiên như vậy thì có thể rơi vào bất cứ ai, bất cứ thời điểm nào. Thậm chí người nào có ý định che giấu dù có khôn khéo đến đâu thì vẫn có thể bị xác minh.


          Theo quy định của pháp luật người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm kê khai, giải trình và chứng minh thu nhập của mình. Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định”. Công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay là một việc làm cần thiết, đáp ứng được yêu cầu cách mạng của đất nước và được toàn dân ủng hộ. Nhất quán quan điểm trong phòng chống tham nhũng đó là "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào". Công tác này thực sự "đã trở thành phong trào, xu thế", được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; được quốc tế ghi nhận.


          Vậy mà VOA đang cố tình sai lệch bản chất vấn đề, một số cái tên VOA viện dẫn đều là những người“Văn dốt, võ dát”; “theo đóm ăn tàn”; “chó sửa theo đàn” như: Huỳnh Tấn Vĩnh; Nguyễn Thế Hưng; Mai Quang Hiền; Nguyễn Trung Kiên; Nguyễn Tấn Thọ…Sớm hay muộn sẽ bị pháp luật chừng trị.


          Nhận định từ sự việc trên cho thấy, VOA đã lợi dụng vào các sự kiện để xuyên tạc đi ngược lại đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng ta. Vì vậy, nhận thức đúng bản chất vấn đề tránh để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm phá hoại công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Từ sự việc trên đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, giảng viên, công chức, viên chức trong lực lượng vũ trang cần nâng cao bản lĩnh, trí tuệ để nhận diện vạch trần bản chất của luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...