Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2023

NVH40 - XA QUẦN CHÚNG LÀ HỎNG

 

Quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam đã để lại thực tế sinh động, nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Ngày 18-8-1962, nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Phú Thọ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Vì vậy mà Đảng ta được dân tin, dân phục, dân yêu. Ngày nay, nhiệm vụ của Đảng ta là lãnh đạo quần chúng đánh thắng tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”.

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ quan điểm Đảng không được xa rời quần chúng nhân dân. Lãnh tụ Lênin từng căn dặn những người cộng sản: Đối với Đảng Cộng sản “… thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là sự tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi phát biểu về bản Tổng cương và Điều lệ của Đảng, ngày 10-5- 1950, đã nhắc nhở: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít. Muốn như thế phải gần quần chúng, học quần chúng, lãnh đạo quần chúng, cái gì lợi cho quần chúng thì làm, hại cho quần chúng thì tránh. Xa quần chúng là hỏng, cần phải nhớ nhiệm vụ của Đảng là làm đầy tớ cho quần chúng”.

Theo Hồ Chí Minh Đảng xa quần chúng là mắc bệnh quan liêu, mà quan liêu lại là căn bệnh vô cùng nguy hiểm, là nguồn gốc của tham ô, lãng phí. Trả lời câu hỏi “Bệnh quan liêu là thế nào?”, trên Báo Sự thật ngày 2-9-1950, Hồ Chí Minh viết: Bệnh quan liêu “nguyên nhân của nó vì xa cách quần chúng, không hiểu biết dân chúng, không học hỏi dân chúng, sợ dân chúng phê bình”. Ngày 24-7-1962, nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu đến nơi đến chốn những công việc cần phải làm, việc gì cũng nắm không vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung. Quan liêu là xa rời quần chúng, không đi sâu đi sát, không hiểu rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình. Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách. Vì vậy, bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô”.  Trước đó, trong bài “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh” đăng trên Báo Nhân dân ngày 2-9-1951, Hồ Chí Minh xác định: “Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy, chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy”. Hồ Chủ tịch cũng chỉ rõ các biện pháp để chữa bệnh quan liêu: “Cách chữa bệnh ấy gồm có một nguyên tắc là: Theo đường lối nhân dân và 6 điều là: Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng bao gồm những quần chúng tiên phong, gương mẫu nhất: “Là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà: Giàu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không thể chuyển lay. Uy lực không thể thuyết phục”. Hồ Chí Minh cũng khẳng định mục đích duy nhất của Đảng là vì nhân dân, ngoài lợi ích của nhân dân Đảng không có lợi ích nào khác; đồng thời có nhân dân thì mới có lực lượng cách mạng. Phân tích mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân, với nhân dân, Người chỉ rõ: giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, nhưng nếu Đảng mà không có giai cấp công nhân cũng không làm được gì. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải ra sức lãnh đạo, tổ chức nhân dân để giải phóng nhân dân và nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân. Tháng 10-1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chủ tịch viết: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.

Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu Đảng không được xa rời quần chúng mà phải: “Đảng phải đi sát quần chúng, khéo tổ chức và lãnh đạo quần chúng, thì cách mạng mới thành công”. Đồng thời Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cũng phải tích cực ủng hộ, tham gia vào các hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ ngày 18- 2-1930, trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên, học sinh! Anh chị em bị áp bức, bóc lột! Đảng Cộng sản ở Đông Dương đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay, anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng…”. Trong khi kêu gọi, mong muốn nhân dân ủng hộ Đảng, đi theo Đảng, Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ rõ yêu cầu nhân dân phải tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp ý phê bình Đảng: “Cán bộ phải tôn trọng dân chủ, nhưng đồng bào phải đòi quyền dân chủ nhân dân của mình. Mình làm cách mạng để thực hiện dân chủ, không phải làm cách mạng để thành “Cán chủ”. Phải loại trừ cho nhanh chừng nào tốt chừng ấy các tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí”. Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở Đảng cần phải tạo thuận lợi cho nhân dân làm tốt công việc này. Người chỉ rõ Đảng là đầy tớ của nhân dân, cần phải hoan nghênh sự phê bình của nhân dân. Người nêu rõ nhân dân phê bình không có hại mà chỉ có lợi cho Đảng và nhân dân phê bình càng rộng, thì chính sách của Đảng càng đúng, uy tín của Đảng càng cao.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện tốt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và đó chính là nguồn sức mạnh to lớn để Đảng, nhân dân, đất nước giành được những thắng lợi to lớn về mọi mặt. Đây cũng là cơ sở quan trọng, là bài học kinh nghiệm thiết thực để chúng ta thực hiện thắng lợi phương châm mà nghị quyết của Đảng đã xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Để đạt được phương châm, mục tiêu đó đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao nhất sức mạnh của ý Đảng, lòng dân, trong đó mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên phong, gương mẫu thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là về mối quan hệ Đảng với nhân dân. Yêu cầu cấp thiết, cụ thể của từng cán bộ, đảng viên là phải tự giác, gương mẫu chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng, trong đó có Quy định về những điều đảng viên không được làm, mà tại Điều 3, có quy định đảng viên không được: “độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”./.

 

NVH40 - Lại những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam

 

Nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phản động, các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã câu kết với các phần tử cực đoan để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, thường xuyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo, tạo ra bức tranh méo mó về vấn đề tự do tôn giáo tại nước ta.

Mới đây, ngày 9/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tôn giáo Chính phủ đã ra mắt Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo ở Việt Nam; thành tựu cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Sau khi Bộ Thông tin và Truyền Thông, Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt Sách trắng, ngay lập tức một số trang báo điện tử như VOA, RFI, RFA… cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá một cách tiêu cực về cuốn sách này. Họ đưa ra những bài viết cho rằng, việc cho ra đời cuốn sách này là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam, nguyên nhân đã khiến Washington đưa Hà Nội vào danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo! Những đánh giá này được dựa trên nhận định của số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo như Thích Vĩnh Phước, một thành viên thuộc tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam; Lê Quang Hiển, thuộc tổ chức Phật giáo Hòa Hảo thuần túy… Các cá nhân trên đều là thành viên của tổ chức bất hợp pháp với danh xưng “Hội đồng Liên tôn Việt Nam”.


Đặc điểm chung của các trường hợp trên là đều thuộc các phần tử chống đối, có quá trình tu tập kém, ít chăm lo cho việc đạo nên uy tín, ảnh hưởng trong giáo hội xếp hạng thấp, năng lực yếu kém, không được trọng dụng. Từ đó, số này tỏ ra bất mãn và đã ly khai khỏi các tôn giáo, tổ chức tôn giáo, sau đó liên kết lại với nhau thành lập một tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo để phục vụ ý đồ, động cơ riêng. Cho nên, hầu hết việc làm của họ đều mang mưu đồ, lợi ích cá nhân chứ không đại diện cho bất kỳ một tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích chung của cộng đồng. Do đó, những phát ngôn, nhận định mà họ chia sẻ với phóng viên của các trang báo điện tử nêu trên cũng chỉ mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, mang tính thù địch với Việt Nam của một nhóm nhỏ có chung lợi ích. Những nhận xét, đánh giá của số cá nhân chống đối nêu trên không thể coi là “đại diện cho tiếng nói tôn giáo”, càng không có giá trị tham khảo. Thế nhưng, bấy lâu nay, phóng viên của các trang báo điện tử VOA, RFI, RFA… lại viện dẫn những nhận định thiếu cơ sở, những đánh giá xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo của các đối tượng trên.

Trong khi đó, những nội dung trong Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” và gần đây là Chỉ thị 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” cùng với hàng chục văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân. Nhờ đó mà số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân được đảm bảo tốt hơn, các cơ sở thờ tự ngày càng được khang trang, đẹp đẽ, quan hệ quốc tế của các tôn giáo ngày càng được mở rộng, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam được công khai theo quy định của pháp luật…

Đặc biệt, các hoạt động tôn giáo lớn đã trở thành lễ hội của người dân Việt Nam như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3 lần đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK, trong đó năm 2019 được tổ chức tại chùa Tam Chúc (Hà Nam) với trên 1500 đại biểu quốc tế đến từ 120 quốc gia, vùng lãnh thổ cùng hàng vạn tăng, ni, phật tử về dự; các lễ hội của Tin Lành như ngày lễ 100 năm Tin Lành đến Việt Nam được tổ chức trang nghiêm. Đặc biệt là ngày Lễ Giáng sinh của người Công giáo ở khắp mọi miền đất nước cũng đã trở thành một lễ hội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân Việt Nam… Vừa qua, giáo tỉnh Hà Nội cũng đã tổ chức thành công Đại hội Giới trẻ tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng với sự tham gia của Tổng Giám mục Marak zelewki – Đặc phái viên không thường trú của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam cùng các vị lãnh đạo giáo hội và khoảng 15 nghìn giáo dân là thanh niên, học sinh, sinh viên người Công giáo… Đây chính là những minh chứng sống động, chân thực về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, trong các hội thảo quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo được tổ chức tại Việt Nam hay trong các lần đón tiếp các đoàn lâm thời, các tổ chức nhân quyền tôn giáo quốc tế vào Việt Nam tìm hiểu chính sách, pháp luật tôn giáo của Việt Nam như: Viện Can dự Toàn cầu Mỹ (IGE), Tập đoàn truyền thông (WAZ) của Đức, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF)…, Việt Nam đều chủ động cung cấp các thông tin về tình hình tự do tôn giáo và chính sách, pháp luật của tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, thẳng thắn trao đổi các vấn đề mà dư luận quốc tế quan tâm. Từ đó, giúp các tổ chức này thấy rõ thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, phong phú cũng như cho thấy chính sách, pháp luật đã đảm bảo quyền tự don tôn giáo chính đáng của nhân dân.

Nếu như thực sự khách quan thì phóng viên của VOA, RFI, RFA, BBC… cần dẫn chứng thêm những nhận định, quan điểm của những vị lãnh đạo trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân, họ mới chính là người đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo Việt Nam. Thế nhưng, bấy lâu nay, khi lấy thông tin đánh giá, các trang thông tin báo chí nói trên luôn phớt lờ và bỏ qua thực tế này và một mực trung thành với quan điểm của các đối tượng chống phá. Do đó, một lần nữa cần khẳng định, việc phê phán Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam là một chiêu trò nhằm chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hòng phủ nhận những thành quả từ những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Rõ ràng các đối tượng trong tổ chức “Hội đồng liên tôn Việt Nam” và các trang VOA, RFI, RFA… khi phê phán về cuốn Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam thực chất là một chiêu trò để biện hộ cho những luận điệu sai trái rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, xuyên tạc về tình hình, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, qua đó lấy cớ phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước và thành quả trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho người dân.

Tại buổi họp báo công bố Sách trắng, Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Tiến Trọng nêu rõ: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, đồng thời là một nhân tố xã hội và văn hóa tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Các tôn giáo du nhập từ bên ngoài cũng có quá trình tiếp biến với văn hóa Việt, tạo ra nét riêng của tôn giáo Việt Nam. Việt Nam là đất nước ôn hòa trong quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo và không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở Việt Nam, các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ và quy định pháp luật. Theo thông tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Nhà nước bảo đảm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% dân số.

 

NVH40 - CHIÊU TRÒ SAU NHỮNG BÀI TẬP RÈN LUYỆN SỨC KHỎE

 

Gần đây, Pháp Luân Công lập ra nhiều trang facebook quảng bá các bài tập về sức khỏe có thể chữa bách bệnh, tán phát tờ rơi để lừa phỉnh người dân. Họ lợi dụng việc rèn luyện sức khỏe, các yếu tố tâm linh, thần bí để dụ dỗ, lôi kéo một số người, thậm chí có cả đảng viên tham gia. Pháp Luân Công hay “Pháp Luân Đại Pháp”, do Lý Hồng Chí (sinh năm 1952, ở Cát Lâm, Trung Quốc) sáng lập từ năm 1992 dưới hình thức tập luyện khí công dưỡng sinh. Sau đó, Pháp Luân Công kích động các đệ tử tiến hành nhiều cuộc biểu tình, bao vây trụ sở cơ quan nhà nước, gây rối trật tự công cộng ở Trung Quốc, bị Chính phủ nước này cấm hoạt động từ tháng 7.1999 và bị coi là tà giáo. Lý Hồng Chí và một số thành viên cốt cán phải trốn sang Mỹ tiếp tục phát triển, thành lập tổ chức “Tổng hội Pháp Luân Công” tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Hiện nay, trên địa bàn nhiều tỉnh như Nghệ An, Hà Nội, Quảng Ninh, TP HCM, Quảng Ngãi... các đối tượng sử dụng các biện pháp tinh vi, tổ chức phát tán tài liệu, lôi kéo, dụ dỗ người dân tham gia tập luyện Pháp Luân Công trái pháp luật, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Nghe lời tuyên truyền, dụ dỗ, nhiều người lầm tưởng hoạt động Pháp Luân Công mang nhiều nét tích cực, như phi chính trị, phi tôn giáo, phi lợi nhuận, đây chỉ là khí công, chữa bệnh có lợi cho cộng đồng. Nhưng thực chất đây là chiêu trò giả dối, lừa gạt để hợp thức hóa hoạt động đằng sau nó. Tại một số công viên ở tỉnh Quảng Ngãi một thành viên đã tán phát tài liệu hướng dẫn tập luyện pháp luân công.

Nhiều người lầm tưởng Pháp Luân Công chỉ hoạt động chống đối Đảng Cộng sản Trung Quốc, không chống phá Đảng, Nhà nước ta, thế nhưng một số thành viên của Pháp Luân Công đã từng có hành vi gây mất an ninh chính trị vài năm trước, như rải tài liệu, truyền đạo trái phép tại Vĩnh Long, kéo đổ tượng Lê-nin nhưng không thành. Các đệ tử Pháp Luân Công cho rằng Lê-nin là kẻ độc tài, cần phá hủy tượng của ông... Rõ ràng, mục đích của những người đứng đầu tổ chức Pháp Luân Công muốn lôi kéo thật đông đệ tử để thực hiện các hoạt động gây rối và công khai hóa tổ chức theo đúng kịch bản đã được thực hiện ở Trung Quốc trước đây. Pháp Luân Công còn lợi dụng Phật giáo, ăn cắp khái niệm thuật ngữ, điển tích, điển cố, tri thức của đạo Phật, mượn danh Phật pháp, lời của đức Phật để tôn xưng Lý Hồng Chí lên thành vị Phật và hạ thấp Phật giáo. Pháp Luân Công dùng ba từ “chân, thiện, nhẫn” làm chủ đạo để truyền bá nhưng thực chất là mê tín dị đoan. Theo đó, ai theo tập sẽ được Pháp thân của Lý Hồng Chí bảo hộ, làm cho con người đạt đến khai công, khai ngộ, công thành viên mãn, linh hồn bất diệt, ai ngăn cản là ma quỷ, hay cái gì họ làm cũng là nhờ ơn của sư phụ Lý Hồng Chí, ngay cả đến tranh luận với người bên ngoài cũng do sư phụ Lý Hồng Chí sắp xếp. Pháp Luân Công cho rằng nguyên nhân của bệnh tật là do những việc xấu của kiếp trước, nếu tin tưởng vào luyện công, dừng ngay việc uống thuốc, không cần khám chữa trị, tự nhiên có người chữa trị cho... Như vậy, Pháp Luận Công đã phủ nhận những kết quả, thành tựu của nền y học tiến bộ, dẫn đến người bệnh chối bỏ phương pháp điều trị, bỏ lỡ cơ hội chữa bệnh của mình ở các cơ sở y tế. Mỗi người dân nâng cao cảnh giác trước thủ đoạn dụ dỗ, lôi kéo của môn phái này. Đừng cho rẳng chỉ vì luyện tập vài động tác của Pháp Luân Công khỏe lên mà tin theo. Người dân nên tham gia rèn luyện sức khỏe, thể thao, dưỡng sinh lành mạnh do địa phương tổ chức, thực hiện nếp sống văn hóa mới trong khu dân cư, chung tay giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn./.

 

NVH40 - ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XẤU, ĐỘC TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN

 

Khoa học công nghệ phát triển với sự phát triển không ngừng của các phương tiện thông tin hiện nay đã làm thay đổi từ nhận thức, tư duy, hoạt động của từng người đến toàn xã hội. Từ các phương tiện thông tin này, nhiều thông tin và tư liệu bổ ích đã được cung cấp kịp thời tới các cá nhân và tập thể; đây còn là phương tiện giao lưu, vui chơi và giải trí của nhiều lứa tuổi, từ cụ già đến các cháu nhỏ...

Thế nhưng trên thực tế, sự phát triển mạnh mẽ, tính đa dạng, hiệu quả và thiết thực, cũng như sự thuận lợi của các phương tiện thông tin cũng được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị coi trọng sử dụng để đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo và kích động, nhằm thực hiện hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta. Do đó, việc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin là rất cần thiết. Đây được coi là một mặt trận đấu tranh rất quan trọng, nhằm giữ vững nền hòa bình, độc lập dân tộc, cũng như bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin cần huy động sức mạnh của toàn dân, cần tiến hành thường xuyên và liên tục; ở nhiều cấp và nhiều ngành, từ Trung ương đến cơ sở, cho đến từng người dân. Đồng thời, cuộc đấu tranh này cũng phải được tiến hành toàn diện trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nhất là quốc phòng, an ninh và đối ngoại; cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Để tăng cường sức mạnh và đấu tranh có hiệu quả với ý đồ tận dụng các phương tiện thông tin, thực hiện “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch địch. Trước hết, các cấp cần coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên có lập trường tư tưởng vững vàng, trình độ lý luận và chuyên môn kỹ thuật cao; đủ năng lực quản lý và đấu tranh trên các phương tiện thông tin. Bên cạnh đó, ta cần xây dựng nhiều chương trình vui chơi bổ ích, mang tính giáo dục cao, thiết thực với nhiều lứa tuổi trên mạng Internet và điện thoại di động, định hướng để các tầng lớp nhân dân sử dụng có hiệu quả. Các ngành phải chủ động giải quyết các tranh chấp bất đồng, những tồn tại yếu kém, cần thiết có thể công khai cho nhân dân và bạn bè quốc tế được biết; không để kẻ xấu, các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động, vu cáo; tạo sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân trong nước cũng như bạn bè quốc tế trong suốt quá trình đấu tranh. Cùng với đó cần kịp thời phát hiện, có định hướng tư tưởng, xác định rõ chủ trương và phương hướng phòng, chống; động viên sức mạnh toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi ý đồ và những luận điểm tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn biến động chính trị ở một số nước trong thời gian qua cho thấy kẻ thù hoặc các lực lượng đối địch, thường khoét sâu những sai lầm thiếu sót trong quản lý và điều hành đất nước của cá nhân hoặc giai cấp lãnh đạo. Từ đó họ đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc và vu cáo trên các phương tiện thông tin, trọng điểm là vấn đề tham nhũng, tiêu cực, gian lận trong bầu cử, tự do, dân chủ và nhân quyền... kích động quần chúng nổi dậy chống đối, tiến tới lật đổ chế độ. Đây là vấn đề chúng ta cần đi sâu nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân, làm rõ bản chất, chỉ rõ đối tượng để chủ động xây dựng kế hoạch và tìm ra giải pháp phòng, chống, ngăn chặn; quyết không cho các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Đó là yếu tố quan trọng để ta giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng và phát triển đất nước, tạo sức mạnh đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.

 

NVH40 - CÔNG CUỘC "ĐỐT LÒ" LÀ ĐỂ GẠN ĐỤC, KHƠI TRONG, KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẤU ĐÁ, THANH TRỪNG NỘI BỘ"

 

Lâu nay trên không gian mạng vẫn thường nghe các tổ chức phản động rêu rao rằng: “Các đảng viên Cộng sản cao cấp đấu đá ,thanh trừng nhau để tranh giành quyền lực, lợi ích nhóm, đấu đá, thanh trừng nội bộ". Chúng xuyên tạc rằng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của chúng ta thực chất là đang thanh trừng phe cánh, đấu đá nội bộ... Xin có đôi lời như sau:

Việc "đốt lò", xử lý những cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực, gây hậu quả nghiêm trọng... là sự cụ thể hóa quyết tâm của Đảng trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những người bị xử lý từ xưa đến nay có cả Ủy Viên bộ Chính trị đến những Đảng viên bình thường. Nghĩa là không chừa một ai, không có vùng cấm, không dung túng cho cái xấu, cái tiêu cực hoành hành. Đảng và nhà nước ta xử lý cán bộ Đảng viên vi phạm theo điều lệ Đảng, theo tinh thần thượng tôn pháp luật, đúng người, đúng tội và có lý, có tình chứ không phải là “thanh trừng nội bộ” như cái cách mà đám xỏ lá ba que vẫn rêu rao, xuyên tạc. Kể cũng lạ thay, khi chúng ta chưa kịp xử lý tham nhũng, tiêu cực thì chúng cho rằng chúng ta bao che, dung túng, vì lợi ích nhóm…nhưng khi chúng ta quyết tâm “diệt trừ tham nhũng, tiêu cực” thì chúng lại cho là đấu đá, thanh trừng nội bộ. Đúng như nhân dân ta thường bảo nhau “không dối trá, xuyên tạc thì không phải là ba que xỏ lá!

Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn” và Đảng cũng không phải là ngoại lệ. Trong mỗi thời kỳ đều luôn có những loài sâu mọt, thậm chí chúng đã chui sâu, leo cao để đứng trong hàng ngũ của những người Cộng sản. Những kẻ thoái hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực, cơ hội, trở cờ để hại dân, phản Đảng. Những kẻ đó, thời nào cũng có và dù sớm hay muộn thì chúng cũng bị trừng trị thích đáng. Loại bỏ, ra khỏi hàng ngũ của Đảng, để góp phần làm trong sạch Đảng, để xứng đáng “vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Cổ nhân dạy "cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm; tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Những người không tu thân, không tề gia được thì sao có thể trị quốc, bình thiên hạ. Bất kể là ai, vi phạm thì tất bị xử lý. Cắt bỏ ung nhọt cứu cơ thể, diệt trừ sâu bọ để vườn rau tốt tươi. Đảng cộng sản Việt Nam muốn trường tồn, phát triển và được nhân dân tin yêu thì tất yếu phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự khắc phục khuyết điểm.

Đấu đá, tranh giành và thanh trừng nội bộ thì phải kể đến chế độ tay sai, bán nước ngụy Sài Gòn, một chế độ được Việt Tân và các tổ chức phản động ngợi ca hết lời và tỏ ý vô cùng tiếc nuối, dù nó đã là bộ xương khô trong mả hơn 47 năm. Đó là chế độ mà các cuộc đảo chính liên tiếp xảy ra, phản ánh mức độ mâu thuẫn, tranh giành ảnh hưởng, thanh trừng, giết hại lẫn nhau giữa các phe phái trong “nội bộ” của các nhóm, các đảng phái chánh trị. Chúng giết nhau để tranh giành quyền được phục vụ quan thầy Hoa Kỳ của chúng, được ăn trên, ngồi trốc, được hưởng lợi từ “bố nuôi”, “được danh gia vọng tộc” ngay trên nỗi đau của nhân dân ta. Có lẽ, thuật ngữ “Thanh trừng nội bộ”, “đấu đá nội bộ”, "Nhóm lợi ích" hay "Lợi ích nhóm" đã hình thành rõ nét từ đây.. Nhìn lại thời kỳ đất nước chưa được giải phóng, chế độ ngụy Sài Gòn do bè lũ tay sai Diệm, Thiệu cầm đầu, chúng ta sẽ thấy đó là thời kỳ của những cuộc thanh trừng đẫm máu giữa các phe phái: Có thể dễ dàng kể ra vài vụ như sau:

- Đảo chính 1960: Đây là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên của chế độ tay sai ngụy Sài Gòn, do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu với mục đích lật đổ ngôi vị Tổng thống của Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chính diễn ra trong bối cảnh Ngô Đình Diệm đã tiêu diệt và thâu tóm được nhóm quân sự Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, nhóm vũ trang của các đảng Đại Việt, Quốc dân Đảng. Phần thắng thuộc về Diệm và đồng bọn; buộc Nguyễn Chánh Thi phải lưu vong nơi đất khách (bản nhạc Hải ngoại thương ca của Nguyễn Văn Đông viết về việc này).

- Đảo chính 1963: Đây là cuộc đảo chính do các tướng lĩnh ngụy Sài Gòn như, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim cùng các thuộc cấp thực hiện với sự giúp sức của Hoa Kỳ vào ngày 1/11/1963. Chúng đã thanh toán, tiêu diệt đối thủ là anh em Diệm, Nhu, Cẩn, xóa cái gọi là “nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam”; chuyển vai trò lãnh đạo sang “Hội đồng quân sự” do Dương Văn Minh đứng đầu. Lý do dẫn đến cuộc đảo chính 1963 do các tướng lĩnh Việt nam Cộng hòa bất mãn trước cách cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm mà bản chất là sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong nội bộ và nó được tiếp sức bởi người Mỹ, do Diệm không thực hiện những thay đổi chính trị theo khuyến cáo của họ.

- Hàng loạt cuộc đảo chính 1964 - 1965: Sau sự kiện anh em Ngô Đình Diệm bị giết, chỉ trong thời gian từ 1964 đến 1965 đã có 5 cuộc đảo chính khác, mà sự kiện mở màn là cuộc chỉnh lý đầu năm 1964. Cuộc “chỉnh lý” năm 1964 của ngụy tặc là một cuộc đảo chính xảy ra vào ngày 30/1/1964 do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Hội đồng quân sự do Dương Văn Minh đứng đầu. Tiếp theo cuộc "Chỉnh lý" ngày 19/12/1964, lại diễn ra một cuộc đảo chính khác do tướng Nguyễn Khánh, tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ và tướng lục quân Nguyễn Văn Thiệu chỉ huy.. Kết quả, Nguyễn Khánh và Hội đồng Quân lực mới được thành lập, gồm các tướng đã tham gia vào cuộc đảo chính, đã khôi phục lại quyền kiểm soát dân sự vào ngày 07/01/1965 với một chính phủ do Trần Văn Hương dẫn dắt. Tuy nhiên, Trần Văn Hương không thể thành lập được một “Chính phủ” hữu hiệu và Hội đồng Quân lực đã tiếp tục đảo chính lật đổ Hương vào ngày 27/1, đồng thời đưa Nguyễn Khánh lên nắm quyền. Chỉ sau hơn 3 tuần nắm quyền, Nguyễn Khánh cũng đã lại bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính khác vào ngày 18/02/1965 do Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu. Tới 12/06/1965, một cuộc đảo chính nữa lại nổ ra, khi Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lại lật đổ chính phủ do Phan Huy Quát (anh trai của cố giáo sư sử học Phan Huy Lê) đứng đầu. Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng còn Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng.

Nói đến đấu đá, hạ bệ lẫn nhau để tranh giành tầm ảnh hưởng, tranh giành “quyền lừa đảo kiếm tiền” nhân danh “chống Cộng” là phải nói đến các tổ chức phản động - vong quốc nô, là cộng đồng quốc tế dùng tiếng Việt (cũng có đứa không biết hoặc không rành tiếng Việt nhưng vẫn đi “chống Cộng”) ở hải ngoại. Chúng là tập hợp một lũ ô hợp từ những tên đu càng đến tụt quân từ 1975 cho đến những tên sang nước ngoài theo diện HO, những kẻ “tù nhân lương tâm” được Tây lông chứa chấp và cho “tị nạn chánh trị” cho đến những chị cave “yêu nghề những đã hết vốn làm ăn”, đến những anh nghiện hút nhưng hết tiền để hút…tạo thành một bức tranh hổ lốn, bát nháo và là nơi “quần khuyển tranh cốt” (đàn chó tranh xương); là nơi để hàng trăm tổ chức nhân danh chống Cộng đấu đá, xâu xé, phỉ báng và triệt hạ lẫn nhau theo kiểu nhóm Đào Minh Quân chửi Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng và ngược lại. Với bản chất lừa đảo của mình nên tất cả bọn chúng tranh nhau để xem ai mới là “siêu lừa đảo”, xem ai mới là “chí tôn chống Cộng” với mục đích cuối chỉ là tiền, là bơ thừa, sữa cặn của các thế lực thù địch bơm cho chúng và để lừa Việt kiều quyên tiền cho chúng.

Từ những luận điểm trên, có thể khẳng định rằng: “đấu đá, thanh trừng nội bộ” chỉ có ở ngụy Sài Gòn và lũ vong quốc nô! Chỉ tồn tại ở đám có dòng máu “liếm gót giày tây béo mượt đầu” gia truyền chúng mày mà thôi! luận điệu của chúng là luận điệu của một lũ lừa đảo đầu sỏ, không hơn, không kém! Dù các ngươi có dùng trăm mưu hèn và ngàn kế bẩn thì cái kết sẽ là sự thất bại, đớn hèn và thật nhục nhã như cái cách mà tên phản quốc đã khai sinh ra tổ chức khủng bố Việt Tân là Hoàng Cơ Minh phải nhận mà thôi! Nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng thù trong, giặc ngoài cho dù chúng là ai, lịch sử của dân tộc đã chứng minh chân lý đó. Công cuộc "đốt lò" của Đảng cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã và đang gặt hái được nhiều thành quả, được nhân dân tin yêu và đất nước ngày càng phát triển, là minh chứng rõ nét nhất. Ch.ó vẫn cứ s.ủa và lò vẫn sáng rực lên./.

 

NVH40 - VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC “TỰ DO INTERNET Ở VIỆT NAM”

 

Gần đây các thế lực thù địch, các đối tượng phản động đang chia sẻ trên nhiều diễn đàn, các hội nhóm bài viết “ Việt Nam hoàn toàn không có tự do Internet”. Sau khi được phát tán, bài viết đã thu hút được nhiều sự quan tâm. Thực chất, đây là bài viết có nội dung bôi đen, xuyên tạc thực tế “Internet đang rất phát triển ở Việt Nam”, với mục đích cổ súy cho luận điệu mượn cớ “tự do Internet” để chống phá lại Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.

Theo nội dung của bài viết, Việt Nam là đất nước không có tự do Internet là bởi vì: Internet Việt Nam chỉ là công cụ tuyên truyền của Đảng, Việt Nam ngăn cấm truy cập những thông tin của thế giới tự do,… Đây hoàn toàn là những luận điệu vô căn cứ, xuyên tạc một cách trắng trợn sự thật về “tự do Internet ở Việt Nam”. Những luận điệu rõ ràng là xuất phát từ tư tưởng thù địch, với ý đồ chống phá của các đối tượng phản động.

Tuy Việt Nam phải đến năm 1997 mới hòa mạng Internet, nhưng đã thu về rất nhiều thành tựu phát triển vượt bậc. Việt Nam là nước có độ bao phủ internet rộng, với mức chi phí sử dụng thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới. Hiện nay, không khó để sử dụng “wifi miễn phí” ở các điểm du lịch, sân bay, bệnh viện, khu vui chơi, quán café, vỉa hè,… tại Việt Nam nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu cần thiết của người dùng. Đối với nhiều du khách nước ngoài “Việt Nam là thiên đường wifi miễn phí”

Ngay tại Mỹ, một quốc gia phát triển hàng đầu chính quyền Liên bang cũng phải thường xuyên đối diện với vấn đề kết nối internet. Trong lúc đại dịch COVID-19 diễn ra, người dân Mỹ cũng gặp rất nhiều khó khăn khi làm việc từ xa, học online do tốc độ mạng quá chậm. Một so sánh đơn giản như vậy để cho thấy “không những Việt Nam có chất lượng internet tốt mà tự do Internet của Việt Nam cũng tốt hơn so với nhiều nước trên thế giới”.

Việc đảm bảo quyền tự do ngôn luận và internet ở Việt Nam luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện, được quy định rõ ràng trong Hiến pháp và Pháp luật. Nhà nước đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của Internet để bắt kịp với xu hướng phát triển của thế giới. Qua đó đáp ứng được nhu cầu sử dụng cho người dân ở trên mọi vùng, miền của Tổ quốc.

Thực tế đó là không thể phủ nhận, tất cả các thế lực thù địch, các phần tử phản động không có quyền đánh giá hay phán xét hiện thực khách quan đó. Hãy chấp nhận với sự thật rằng “ Tự do Internet ở Việt Nam hoàn toàn không thể bị phủ nhận”.


 

NVH40 - SỰ SAI TRÁI CỦA LUẬN ĐIỂM “CHẾ ĐỘ MỘT ĐẢNG KHÔNG CHỐNG ĐƯỢC THAM NHŨNG”

 

Để xuyên tạc, phủ nhận những tiến bộ trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền cho luận điểm “chế độ một đảng cầm quyền không thể chống được tham nhũng”(!).

Đây là luận điểm rất sai trái, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.

Những năm qua, với quan điểm “phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh này. Với tinh thần kiên quyết, kiên trì, công khai, minh bạch, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành một cách bài bản, đạt được những kết quả tích cực.

Tuy nhiên, thực hiện mưu đồ chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch đã lợi dụng các trang mạng xã hội và kênh truyền thông không thiện chí với Việt Nam để lan truyền những thông tin xuyên tạc, bóp méo tình hình chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta. Một mặt, họ cho rằng các hoạt động phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay “chỉ là để mị dân”, hay “Đảng Cộng sản Việt Nam không thật sự quyết tâm chống tham nhũng”(!). Mặt khác, trước kết quả phòng, chống tham nhũng thời gian qua, nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, hoặc xử lý hình sự do tham nhũng, họ lại cho rằng “tham nhũng là sản phẩm của chế độ chính trị ở Việt Nam”(!) và “Việt Nam càng chống tham nhũng thì tham nhũng càng nhiều, bởi đó là căn bệnh kinh niên của thể chế chính trị một đảng cầm quyền”(!).

Từ đây, họ kêu gọi phải thay đổi thể chế chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có thể chống được tham nhũng. Cổ súy cho khuynh hướng này, ngày 24/6/2022, Đài Á châu tự do (RFA) đăng bài viết “Thuốc đặc trị chữa tham nhũng: thay đổi thể chế” xuyên tạc công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta; trong đó, họ nêu câu hỏi mang tính kích động chính trị, rằng: “Liệu có diệt được tham nhũng trong thể chế hiện hành hay không?”(!). Từ đó đưa ra “lời khuyên”: Việt Nam nên từ bỏ chế độ chính trị hiện hành để chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa mới chống được tham nhũng. Những luận điểm kiểu này thực sự nguy hiểm, dễ làm cho người dân lầm tưởng tham nhũng gắn liền với thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa và do chế độ một đảng cầm quyền gây ra; qua đó, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và gây nên nguy cơ bất ổn về chính trị trong xã hội.

Cần khẳng định dứt khoát rằng, luận điểm coi tham nhũng là “căn bệnh kinh niên” của chế độ xã hội chủ nghĩa, của chế độ một đảng cầm quyền và “chế độ một đảng không chống được tham nhũng” là hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn. Trên phương diện lý luận, một mặt, tệ nạn tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; ở đâu có quyền lực, ở đó có nguy cơ xảy ra tham nhũng, một khi quyền lực bị lạm dụng. Tham nhũng là “căn bệnh” của nhà nước, do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra; có nhà nước là có tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đi theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng.

Mặt khác, nếu quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện, thì quyền lực sẽ không thể bị lạm dụng; người có quyền lực sẽ “không thể,” “không dám”, “không muốn” và “không cần” tham nhũng, tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Do đó, chế độ một đảng lãnh đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng. Trên phương diện thực tiễn, ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, duy trì chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn tồn tại; thậm chí một số nguyên thủ quốc gia (như ở: Tunisia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Indonesia, Pakixtan, Brazil,…) cũng dính vào tội tham nhũng. Mới đây, Phó Tổng thống Argentina, 01 Phó Chủ tịch Nghị viện châu Âu cũng bị cáo buộc dính vào tham nhũng.

Chẳng thế mà Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) hằng năm đều công bố chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) trong khu vực công, để cung cấp cái nhìn tổng quát về mức độ tham nhũng tương đối của 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, chủ yếu là các nước, vùng lãnh thổ đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng. Nhìn vào bảng xếp hạng CPI năm 2021 (công bố đầu năm 2022) có thể thấy rất rõ quốc gia nào cũng có tham nhũng, khác nhau chỉ ở mức độ nghiêm trọng, bởi không có quốc gia nào đạt được điểm 100 (tức là không có tham nhũng). Những nước đứng đầu bảng xếp hạng CPI là Đan Mạch, Phần Lan và New Zealand, cũng chỉ đạt 88 điểm, nghĩa là vẫn có tham nhũng. Còn những nước đứng cuối bảng là Somalia, Syria và Nam Sudan chỉ đạt từ 11 đến 13 điểm, đều là các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Bảng xếp hạng còn cho biết trong 10 năm qua (kể từ năm 2012), 23 quốc gia và vùng lãnh thổ đã giảm đáng kể về chỉ số CPI, trong đó có các nước như Australia, Canada và Mỹ. Điều đó cho thấy tham nhũng ở những nước này trong 10 năm qua có xu hướng gia tăng.

Thực tiễn ở nước ta cũng cho thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết liệt lên án những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà nước trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Người coi tham ô, tham nhũng là thứ “giặc nội xâm”. Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”1. Người yêu cầu: “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”2, phải kiên quyết đấu tranh, quét sạch. Với cương vị là Đảng cầm quyền, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chưa bao giờ buông lỏng nhiệm vụ chống tham nhũng, tiêu cực. Tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định tham nhũng, tiêu cực là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, cần phải quyết liệt xóa bỏ. Để công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng có bước đột phá, Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) của Đảng đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Với cơ chế đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện bài bản, quyết liệt, đồng bộ, có bước đột phá, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong cuộc đấu tranh này với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”.

Để khắc phục những sơ hở, bất cập trước đây làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện bước đi rất bài bản bằng việc ban hành và đưa vào tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, quy định của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực3, nhằm “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện một cách quyết liệt, công khai, minh bạch. Theo tổng kết của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 6/2022, đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao gấp 04 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII); trong đó, có 08 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng. Hoạt động phòng, chống tham nhũng từng bước được mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước và sang cả lĩnh vực chống tiêu cực. Nhờ đó, tình trạng tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.

Những kết quả cụ thể đó đã tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; đồng thời, là bằng chứng thuyết phục bác bỏ mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch. Con số 93% người dân được hỏi trong cuộc điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành thời gian qua, bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã nói lên điều đó. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam còn nhận được sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, trong một thập kỷ qua, Việt Nam đã tăng hơn 30 bậc về chỉ số CPI, năm 2021 tăng 03 bậc trong bảng xếp hạng so với năm 2020. Cơ quan đầu mối quốc gia của Tổ chức Minh bạch quốc tế tại Việt Nam là Hướng tới Minh bạch (TT) cũng khẳng định: “Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong phòng, chống tham nhũng nhờ nỗ lực to lớn của Đảng và Nhà nước”.

Trước những kết quả mang tính đột phá trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam, đại diện nhiều doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng có những đánh giá tích cực. Ông Thomas Bo Pedersen, Tổng Giám đốc Công ty Mascot Việt Nam và Lào nhận xét: “Điều này cho thấy Đảng và Chính phủ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực rất quyết liệt và theo một cách có hệ thống. Tôi cho rằng, đây là động thái đúng đắn và cho tôi hy vọng rằng tham nhũng, tiêu cực sẽ không diễn ra khi thấy Đảng và Chính phủ xử lý tham nhũng, tiêu cực quyết liệt như thế cũng như nhìn thấy hậu quả nếu tham nhũng, tiêu cực”. Ông Kenneth Atkinson, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Anh quốc tại Việt Nam (BritCham Vietnam) nhấn mạnh: “Tôi cho rằng những hành động mạnh mẽ này của Việt Nam rất đáng hoan nghênh, đặc biệt lần này là với ngay cả những quan chức cấp cao. Đây là một động thái tích cực và hy vọng rằng sẽ được duy trì”.

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với quyền lực nhà nước, nên không thể xóa tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn. Đó là điều mà cả thế giới đều nhận thấy. Ở nước ta, mặc dù cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với ý chí, quyết tâm và trách nhiệm cao; với tinh thần đấu tranh không “ngừng”, không “nghỉ” như chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; với sự nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết quả cao hơn nữa. Tham nhũng, tiêu cực nhất định sẽ bị ngăn chặn, đẩy lùi; những luận điệu sai trái cho rằng “Đảng ta không có quyết tâm chống tham nhũng”, hoặc “cơ chế một đảng lãnh đạo cầm quyền không chống được tham nhũng” nhất định sẽ không còn chỗ đứng.

 

NVH40 - ĐẬP TAN ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI” CỦA CÁC THỀ LỰC THÙ ĐỊCH

 

            Mỗi khi đất nước ta, dân tộc ta tiến tới một sự kiện chính trị quan trọng nào đó thì các thế lực thù địch, phản động lại tăng cường chống phá, đòi “phi chính trị hóa LLVT”, “phi chính trị hóa Quân đội”. Đây là một âm mưu tuy không mới nhưng rất nguy hiểm và chúng ta phải hết sức cảnh giác.

Âm mưu, thủ đoạn nhằm “Phi chính trị hóa Quân đội” là một đòn tấn công mũi nhọn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối Lực lượng vũ trang (LLVT) nói chung, Quân đội ta nói riêng, mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành được. Chúng cho rằng nếu bẻ gãy “Thanh Bảo kiểm” này thì “Cộng sản” sẽ tự sụp đổ, vì vậy các thế lực thù địch quốc tế và bọn phản động cơ hội chính trị trong nước thông qua các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo, bôi đen hòng chia rẽ nội bộ, hạ thấp vai trò của Quân đội, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Lợi dụng việc góp ý với Đảng, Nhà nước thông qua các “huyết tâm thư”, “ bản kiến nghị” ...để đòi “Quân đội Nhân dân chỉ phải trung thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với Đảng Cộng sản”, kêu gọi “Quân đội hãy đứng ngoài chính trị”, “Bỏ đảng để trở về với nhân dân”... Trong những buổi “hội thảo”, “Phỏng vấn”, “tọa đàm bản tròn trực tuyến”....của những “nhà nghiên cứu chính trị”, “Luật sư”, “Nhà văn”, “nhà bất đồng chính kiến”... của cơ quan truyền thông quốc tế thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC tiến việt, RFA, RFI, VOA; một số Đảng phái phản động, hội, đoàn tự xưng như: đảng “Việt Tân”..., chính phủ “Quốc gia việt nam lâm thời”, “Triều đại Việt”...đã bị nhà nước ta đưa vào danh sách tổ chức khủng bố và các cơ quan truyền thông người Việt chống cộng hải ngoại, các phần tử mất mãn, cơ hội chính trị trong nước ngày đêm tung ra đủ mọi “lý lẽ”, “cơ sở” đòi “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, “phi chính trị hóa Quân đội”.

Kết hợp lực lượng bên trong với bên ngoài, tập trung tiến công trực diện vào những quan điểm cơ bản, nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội; cho rằng nguyên tắc đó thể hiện Đảng tự cho mình quyền đứng trên dân tộc, đứng trên nhân dân, bởi Quân đội là để “bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, Đảng chỉ là một bộ phận của xã hội, sao lại giành “độc quyền lãnh đạo” cho Đảng... Đây là luận điệu đặc biệt nguy hiểm; thực sự phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Nó tác động âm thầm, thường xuyên, trực tiếp đến lập trường tư tưởng, chính trị đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân và LLVT nhân dân, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Thực tế đã có cán bộ, đảng viên kể cả trong LLVT nói chung và Quân đội nói riêng, cả đương chức, khi đã nghỉ hưu đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” vi phạm pháp luật, kỷ luật, thậm chí phản bội lại lý tưởng cách mạng, phụ họa cho những luận điệu xuyên tạc, phản động của chúng.

Nguyên cứu về chiến tranh nhà lý luận quân sự tư sản của nước Phổ K.Clausewitz trong tác phẩm (On War – tạm dịch “Bàn về chiến tranh” sách có xuất bản ở Việt Nam) đã khái quát luận điểm được thừa nhận như là một chân lý cả trong cả giới khoa học quân sự tư sản và vô sản rằng: “Chiến tranh là sự kế tục của chính trị” nghĩa là trong mọi cuộc chiến tranh đều có mục tiêu chính trị, mà chiến tranh thì không thể thiếu Quân đội; nói một cách khác: quân đội là lực lượng bạo lực để tiến hành chiến tranh nhằm đạt mục tiêu chính trị nào đó...như vậy không thể có “Quân đội phi chính trị”, “Quân đội đứng ngoài chính trị”.

Theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin: Quân đội mang bản chất giai cấp và là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. Chính trị của quân đội, thực chất là vấn đề bản chất giai cấp của quân đội. V.I.Lê-nin đã vạch rõ bản chất phản động của luận điệu lực lượng vũ trang “đứng ngoài chính trị”, coi đó là “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”, thực chất chỉ là chiêu trò lừa bịp, mị dân nhằm mục đích phản cách mạng.

Thực tiễn lịch sử cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX cho thấy trước sự chống phá của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực phản cách mạng quốc tế và “tự diễn biến” trong nội bộ, một quyết định sai lầm chí tử có tính quyết định dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là chấp nhận đa nguyên, đa đảng, “Phi chính trị hóa quân đội” loại bỏ toàn bộ cơ chế lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản trong quân đội, đặt quân đội ra ngoài sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy khi có chính biến quân đội không biết chiến đấu vì ai? bảo vệ ai? ... Gần đây, ở một số nước trong khu vực, chính vì Quân đội không có được một đảng chính trị chân chính lãnh đạo; trong một môi trường chính trị bát nháo làm cho các đảng chính trị tha hồ “tranh hùng, tranh bá” dẫn đến biểu tình, đảo chính liên miên... ổn định chính trị xã hội luôn là cơn ác mộng của các nhà đầu tư, khách du lịch...ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Điều đó nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo, cảnh giác với âm mưu “phi chính trị hóa quân đội ” của các thế lực thù địch.

Thực tế hiện nay ở các thể chế đa nguyên, đa đảng, của các nước TBCN, nhà nước được bầu ra tưởng như rất dân chủ vì có cạnh tranh đối lập, nhưng cạnh tranh đó chỉ là cạnh tranh trong các đảng phái đại diện cho giai cấp tư sản là chủ yếu, vì chỉ họ mới có đủ tiền và sự hậu thuẫn của các thế lực tài phiệt tư sản để vận động tranh cử và thắng cử...như vậy quân đội của các nước tư bản ngoài phục vụ lợi ích và bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc; còn phải để phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị... của giai cấp tư sản đã sinh ra nó; như vậy nói quân đội của các nước Tư bản, các nước có thể chế đa nguyên, đa đảng là “Quân đội phi chính trị”, “Quân đội đứng ngoài chính trị” là không có cơ sở.

Trong tư tưởng xây dựng quân đội cách mạng; Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng quân đội về chính trị, coi đó là gốc, rễ, là nền tảng Người nói “quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”, “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.

Quân độị Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) với lịch sử truyền thống gần 77 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành luôn đặt dưới sự lãnh đạo thường xuyên, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng và cũng chính vì được sự lãnh đạo thường xuyên, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng làm cho quân đội ta luôn giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. QĐNDVN từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với Nhân dân, được Nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở và gọi với cái tên yêu mến “Bộ đội Cụ Hồ”, quân đội đó thời chiến cũng như thời bình luôn một lòng chiến đấu hy sinh, quên mình cứu dân, cứu nạn...Vậy ai có thể nói rằng quân đội đó dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN không chiến đấu vì dân, vì nước, vì dân tộc, vì Tổ quốc...

Mọi luận điệu cổ súy cho quan điểm “lực lượng vũ trang phải trung lập về chính trị”, đòi loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang, đối với QĐNDVN … Đó chính là những cái bẫy “phi chính trị hóa” hết sức tinh vi và thâm hiểm của các thế lực thù địch, chúng ta phải hết sức cảnh giác, không mắc mưu trước những chiêu trò “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, tập trung chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” nội bộ trong quân đội. Thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thường xuyên quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 05CT/TW của Bộ chính trị khóa XII về: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa; tăng cường đoàn kết gắn bó máu thịt với Nhân dân, tuyên truyền vận động nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn đòi “Phi chính trị hóa Quân đội” của các thế lực thù địch; đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận lý luận, tư tưởng, văn hóa... trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Xây dựng QĐNDVN vững mạnh về chính trị, chống “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng hàng đầu, đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách… Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định rõ nguyên tắc căn bản đó và hiện nay vẫn đang tiếp tục được coi trọng làm nền tảng để xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống./

NVG40 - ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XẤU, ĐỘC TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN

 

Sự phát triển không ngừng của các phương tiện thông tin hiện nay đã làm thay đổi từ nhận thức, tư duy, hoạt động của từng người đến toàn xã hội. Từ các phương tiện này, nhiều thông tin và tư liệu bổ ích đã được cung cấp kịp thời tới các cá nhân và tập thể; ký kết các văn bản hợp tác và trao đổi hàng hóa giữa các đối tác, các tổ chức trong nước cũng như quốc tế. Ngoài ra, đây còn là phương tiện giao lưu, vui chơi và giải trí của nhiều lứa tuổi, từ cụ già đến các cháu nhỏ...

Thế nhưng trên thực tế, sự phát triển mạnh mẽ, tính đa dạng, hiệu quả và thiết thực, cũng như sự thuận lợi của các phương tiện thông tin cũng được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị coi trọng sử dụng để đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo và kích động, nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta. Do đó, việc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin là rất cần thiết. Đây được coi là một mặt trận đấu tranh rất quan trọng, nhằm giữ vững nền hòa bình, độc lập dân tộc, cũng như bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin cần huy động sức mạnh của toàn dân, cần tiến hành thường xuyên và liên tục; ở nhiều cấp và nhiều ngành, từ Trung ương đến cơ sở, cho đến từng người dân. Đồng thời, cuộc đấu tranh này cũng phải được tiến hành toàn diện trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nhất là quốc phòng, an ninh và đối ngoại; cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Để tăng cường sức mạnh và đấu tranh có hiệu quả với ý đồ tận dụng các phương tiện thông tin, thực hiện “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch địch. Trước hết, các cấp cần coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên có lập trường tư tưởng vững vàng, trình độ lý luận và chuyên môn kỹ thuật cao; đủ năng lực quản lý và đấu tranh trên các phương tiện thông tin. Bên cạnh đó, ta cần xây dựng nhiều chương trình vui chơi bổ ích, mang tính giáo dục cao, thiết thực với nhiều lứa tuổi trên mạng Internet và điện thoại di động, định hướng để các tầng lớp nhân dân sử dụng có hiệu quả. Các ngành phải chủ động giải quyết các tranh chấp bất đồng, những tồn tại yếu kém, cần thiết có thể công khai cho nhân dân và bạn bè quốc tế được biết; không để kẻ xấu, các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động, vu cáo; tạo sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân trong nước cũng như bạn bè quốc tế trong suốt quá trình đấu tranh. Cùng với đó cần kịp thời phát hiện, có định hướng tư tưởng, xác định rõ chủ trương và phương hướng phòng, chống; động viên sức mạnh toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi ý đồ và những luận điểm tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn biến động chính trị ở một số nước trong thời gian qua cho thấy kẻ thù hoặc các lực lượng đối địch, thường khoét sâu những sai lầm thiếu sót trong quản lý và điều hành đất nước của cá nhân hoặc giai cấp lãnh đạo. Từ đó họ đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc và vu cáo trên các phương tiện thông tin, trọng điểm là vấn đề tham nhũng, tiêu cực, gian lận trong bầu cử, tự do, dân chủ và nhân quyền... kích động quần chúng nổi dậy chống đối, tiến tới lật đổ chế độ. Đây là vấn đề chúng ta cần đi sâu nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân, làm rõ bản chất, chỉ rõ đối tượng để chủ động xây dựng kế hoạch và tìm ra giải pháp phòng, chống, ngăn chặn; quyết không cho các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Đó là yếu tố quan trọng để ta giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng và phát triển đất nước, tạo sức mạnh đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.

 

 

 

 

 

 

NVG40 - Về yêu sách “Tự do tôn giáo - nhân quyền ở Việt Nam” của Mỹ

 

Ngày 19-11-1999, Luật HR 2194 đánh dấu “bước tiến mới” của chính sách gây sức ép, trừng phạt về kinh tế, ngoại giao của Mỹ đối với tất cả các nước vì “lý do tự do tôn giáo”. Cũng năm 1999, báo cáo đầu tiên của Ủy ban Nhân quyền quốc tế của Mỹ về tình hình 197 nước đã “điều chỉnh” lối phân chia 2 loại nước của Luật HR 2431, thành 4 loại nước, theo tiêu chí của Luật Tự do tôn giáo quốc tế nói trên. Như vậy Mỹ đã chính thức sử dụng vũ khí “Tôn giáo - nhân quyền” trong các quan hệ quốc tế hiện nay, cả trên phương diện pháp lý, đạo lý và chính sách đối ngoại.

 I. Vấn đề “tự do tôn giáo” trong lô-gic và chính sách của Mỹ

Nhìn một cách đại thể, từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong chính giới Mỹ bắt đầu đưa vấn đề nhân quyền vào phạm trù, chính sách đối ngoại. Chẳng hạn, năm 1994, Hạ viện Mỹ thông qua Nghị quyết lấy ngày 11-5 hàng năm là “Ngày nhân quyền Việt Nam”.

 Ngày 14-5-1998, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Luật Tự do tôn giáo quốc tế (HR 2431). Đây là lần đầu tiên, trong một bộ luật, Mỹ đã công khai, hợp pháp hóa những căn cứ của họ trong chính sách tôn giáo quốc tế.

Bộ luật này cũng đưa ra một số định nghĩa, trong đó có định nghĩa về “những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về tự do tôn giáo”. Theo đó, những vi phạm như “tra tấn hoặc đối xử vô nhân đạo; giam giữ lâu dài mà không buộc tội; làm nhiều người bị mất tích hoặc giam giữ bí mật; tước bỏ quyền sinh sống, tự do, an ninh cá nhân” được coi là những nội dung cụ thể.

 Với bộ luật này, trong cơ quan hành pháp Mỹ bắt đầu xuất hiện nhân vật đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao; một Ủy ban về Tự do tôn giáo quốc tế; một Cố vấn đặc biệt về Tự do tôn giáo quốc tế trong cơ cấu tổ chức Hội đồng An ninh quốc gia...

Lẽ dĩ nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề tôn giáo trong đời sống xã hội loài người những thập niên gần đây còn chịu nhiều tác động khác mà theo chúng tôi là do những yếu tố sau:

 - Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tạo ra sự khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà còn có tác động lớn đến đời sống tôn giáo thế giới: sự trỗi dậy của Chính thống giáo và tư tưởng tôn giáo nói chung ở các vùng lãnh thổ thuộc Liên Xô trước đây, sự bùng nổ của chủ nghĩa ly khai trên cơ sở xung đột sắc tộc, tôn giáo với các mục tiêu chính trị khác nhau... Cuối thế kỷ XX, xu hướng vô thần có nhiều dấu hiệu suy giảm, thay vào đó là sự “quay trở lại của tâm thức tôn giáo”.

 - Cục diện “chiến tranh lạnh” mất đi và cục diện thế giới đã chuyển từ thế hai cực Xô - Mỹ sang cục diện nhất siêu (Mỹ), đa cường. Nhưng nói như thế cũng chưa phản ánh hết tính đa dạng, phức tạp của cục diện thế giới hiện nay. Dưới hình thái chủ nghĩa khủng bố, một bộ phận của thế giới Hồi giáo đã và đang trở thành lực lượng đối đầu với Mỹ và phương Tây.

 - Toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế của thế giới hiện nay tác động theo hai chiều tích cực và tiêu cực đến lịch sử thế giới đương đại. Về mặt tôn giáo, đã và đang diễn ra một xu hướng mới rất đáng chú ý, đó là xu thế toàn cầu hóa tôn giáo. Hiện tượng toàn cầu hóa tôn giáo hiện ra ngày càng rõ nét và đã đặt ra nhiều vấn đề xã hội và tôn giáo có tính thách thức. Đại thể, theo giới nghiên cứu tôn giáo, toàn cầu hóa tôn giáo là quá trình chuyển từ tính liên Nhà nước sang tính xuyên quốc gia; các chiến lược bành trướng tôn giáo càng ít đi sự liên quan đến quyền bá chủ chính trị, nó không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các Nhà nước. Việc “xuất khẩu” tôn giáo ở các thế kỷ trước thường gắn với sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân thì nay các luồng tôn giáo không thể đáp ứng lô-gic này nữa. Toàn cầu hóa tôn giáo hiện nay có xu thế thoát khỏi tầm kiểm soát của các Nhà nước và vượt lên trên các đường biên giới. Ngoài ra các luồng tôn giáo không còn giới hạn ở sự lan truyền Bắc - Nam (hoặc Tây - Đông) mà trở nên phức tạp hơn.

 - Thế tục hóa và hiện đại hóa. Thế tục hóa là khái niệm nảy sinh trong các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Thuật ngữ này được định nghĩa một cách đơn giản là quá trình trong đó tôn giáo bị giảm tầm quan trọng trong xã hội cũng như trong ý thức cá nhân.

 Nêu ra một số xu hướng lớn trên đây trong đời sống tôn giáo thế giới để có thể đi đến nhận định là các thế lực thù địch còn lợi dụng bối cảnh phức tạp của vấn đề tôn giáo đương đại, biến vấn đề tôn giáo - nhân quyền thành một vũ khí lợi hại chống lại những nước không chịu chấp nhận “hệ giá trị Mỹ”. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, với thế “thượng phong”, âm mưu này của Mỹ ngày càng có tính chất công nhiên và áp đặt.

 Âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo - nhân quyền của Mỹ chống Việt Nam cơ bản là dựa vào một luận lý nhất định. Vì thế, đã đến lúc chúng ta phải đi sâu tìm hiểu cái “logic” của Mỹ trong vấn đề “tự do tôn giáo ở Việt Nam” là gì? Bởi vì, khi hiểu rõ cái logic ấy, tức là “cơ sở luận lý” của họ, chúng ta mới có thể đấu tranh có hiệu quả, hoặc ít nhất cũng vạch trần được cái logic của họ để bảo vệ sự đúng đắn của chúng ta trước dư luận trong nước và quốc tế.

 Trước hết, phải nói tự do tôn giáo - một giá trị tư tưởng của loài người đã được “phát hiện” ở châu Âu với các cuộc cách mạng tư sản (thế kỷ XVII - XVIII). Tuy vậy, cũng phải có quá trình người ta mới quan niệm đầy đủ hơn về nó. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 chưa nói đến tự do tôn giáo, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789 của Pháp có nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, nhưng cũng chưa nói trực tiếp đến tự do tôn giáo, Luật phân ly (1905) nổi tiếng của Pháp đã nói đến tự do lương tâm và tự do thờ cúng. Phải đến Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10-12-1948 mới có sự thể hiện hoàn chỉnh về công pháp quốc tế của khái niệm “tự do tôn giáo”.

 Khái niệm tôn giáo đã được mở rộng bao gồm cả tôn giáo nhóm nhỏ và cá thể nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ phái Tin lành Mỹ ra khắp thế giới.

 Cùng với việc lợi dụng xu thế đa nguyên về tôn giáo, toàn cầu hóa tôn giáo nói trên, Mỹ còn nhằm vào việc làm thay đổi bản đồ địa - tôn giáo của thế giới, tạo thêm cơ sở xã hội có lợi cho việc thực thi chính sách toàn cầu của họ.

II. Nội dung các quan điểm của Mỹ về vấn đề “tự do tôn giáo - nhân quyền ở Việt Nam”

- Về nội dung quyền “tự do tôn giáo” ở Việt Nam. Mỹ đưa ra những luận điệu hết sức sai trái để xuyên tạc và vu cáo Việt Nam như:

 + Trong khi điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (Điều 1 của Tuyên ngôn Nhân quyền) về loại trừ các hình thức bất khoan dung, phân biệt với tôn giáo hay tín ngưỡng... thì Hiến pháp Việt Nam ở điều 70 quy định dựa vào “Chính sách Nhà nước” để định các giá trị trên.

 + Cho rằng Việt Nam thường xem tôn giáo như một vật thể chính trị chứ không phải một tác nhân của xã hội, có quyền tự do quyết định vận mệnh của nó, thậm chí còn xem tôn giáo như một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính sách Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng.

 + Dự luật HR 2368 vẫn lặp lại cái nhìn rất sai lệch cố hữu rằng: “Chính phủ Việt Nam tước đoạt một cách hệ thống quyền cơ bản về tự do tôn giáo của công dân mình...”.

 - Về vấn đề Tin lành ở Tây Nguyên. Họ tập trung nghiên cứu các phương diện nhân chủng học, dân tộc học, tôn giáo học... ở vùng này. Họ cho rằng, những sự kiện vừa qua ở Tây Nguyên chính là “sự phẫn nộ trước sự mất mát đất đai của tổ tiên và sự thiếu tự do tôn giáo và trong nhiều dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã hình thành một thứ chủ nghĩa dân tộc, cơ sở cho những “đòi hỏi chính trị” hôm nay.

 - Các thế lực thù địch cho rằng, ở Việt Nam có “hai chính sách tôn giáo”. Một là, trên ngôn ngữ văn bản, mà họ thừa nhận ngày một cải thiện. Hai là, chính sách áp dụng trong thực tiễn, nhất là ở các địa phương thì ngược lại, đó là sự hạn chế, trói buộc các tôn giáo.

- Nguy hiểm nhất là Mỹ lợi dụng vấn đề “tôn giáo – dân tộc” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc thiểu số, kích động gây bạo loạn, gây rối nhằm tạo sự mất ổn định chính trị – xã hội trong khu vực. Cụ thể là các thế lực thù địch công khai ủng hộ các phần tử phản động trong số người dân tộc thiểu số lưu vong, phục hồi tổ chức FULRO, lập ra “Tin Lành Đề ga”, ‘Nhà nước Đề ga”, “Tổ quốc Mông”... Họ thường xuyên kích động các phần tử cực đoan trong các tôn giáo đòi “tự do tôn giáo”, âm mưu tái lập “Liên tôn chống cộng sản”; khôi phục các tổ chức tôn giáo bất hơp pháp” công kích Uỷ ban đoàn kết Công giáo; hỗ trợ cho một số người nhằm âm mưu phát triển đạo Tin Lành ngoài khuôn khổ, luật pháp ở vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên, thậm chí còn vận động tặng giải thưởng No-ben vì hoà bình và các giải thưởng nhân quyền cho một số nhân vật tôn giáo chống đối, cực đoan, đối lập với Nhà nước lâu nay.

 III. Mấy suy nghĩ có tính giải pháp

Để phản bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trong vấn đề tôn giáo và nhân quyền, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp, phương thức sau:

1 - Vấn đề “tự do tôn giáo”

Tính phức tạp của vấn đề là ở chỗ Mỹ lạm dụng và đồng nhất quyền tự do tôn giáo và tự do truyền giáo để có thể thúc đẩy sự truyền bá Kitô giáo, nhất là Tin Lành sang châu Âu và các nước khác trên thế giới. Những năm gần đây, do bối cảnh toàn cầu hoá tôn giáo, Mỹ đã lợi dụng những ưu thế của đạo Tin Lành để có thể bành trướng văn hoá, văn minh ra toàn cầu. Học thuyết về tự do tôn giáo của Mỹ còn đặc biệt chú trọng đến vấn đề cải đạo, đổi đạo. Cụ thể là Mỹ rất quan tâm lợi dụng các dân tộc thiểu số trên khắp các lục địa, những cộng đồng nhỏ yếu, nhạy cảm, nặng mặc cảm “bị gạt bên lề” khỏi xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá và các cộng đồng vốn bị “thua thiệt lịch sử”.

 Chúng ta cần nghiên cứu, vạch rõ sự áp đặt các giá trị Mỹ cũng như sự phi lý của Mỹ với quan điểm tự do tôn giáo theo lối lưỡng chuẩn (Double Standard). Ngoài ra, bên cạnh việc nghiên cứu cái “logic” về “tự do tôn giáo” của Mỹ, chúng ta cần nghiên cứu sự khác biệt trong quan niệm của Mỹ và Tây Âu về tôn giáo.

 2 - Vấn đề “luật pháp tôn giáo”

Chúng ta một mặt phải hoàn thiện hơn nữa về phương diện luật pháp tôn giáo theo hướng hội nhập hơn với các Công ước quốc tế. Mặt khác, trong công tác lý luận, chúng ta cũng cần khẳng định những mặt mạnh, sự tiến bộ của hệ thống luật pháp tôn giáo ở Việt Nam và trình bày một cách thuyết phục bước biến chuyển này trước công luận. Trong khi thể hiện logic về tự do tôn giáo ở nước ta, về nguyên tắc phải đảm bảo những tư tưởng chỉ đạo mà Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra như: bảo đảm nguyên tắc độc lập dân tộc, xã hội chủ nghĩa, tôn giáo phải đồng hành với dân tộc, lựa chọn các tôn giáo, tín ngưỡng của công dân phải thực sự trên cơ sở tự nguyện, gắn bó với Tổ quốc và bản sắc dân tộc...

3 - Vấn đề “tù nhân tôn giáo”

Chúng ta cần khẳng định rõ là Việt Nam luôn tôn trọng một nguyên tắc cơ bản là người dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng tôn giáo. Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân tôn giáo”, không có ai bị giam giữ vì lý do tôn giáo và bất đồng chính kiến.

 4 - Vấn đề “hai chính sách tôn giáo ở Việt Nam”

Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta kiên quyết bác bỏ luận điểm này. Giới nghiên cứu cần bảo vệ và làm rõ quan điểm nhất quán, lời nói đi đôi với việc làm, chính sách, luật pháp về tôn giáo luôn được thực hiện ngày càng tốt hơn trong thực tiễn với những dẫn chứng thuyết phục.

 5. Về âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo trong các dân tộc thiểu số ở các địa bàn chiến lược ở nước ta nhằm thực hiện chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa giải lãnh thổ.

 Để làm thất bại âm mưu này của địch, chúng ta cần nghiên cứu sâu và toàn diện hơn những đặc tính, cội nguồn lịch sử, những vấn đề đương đại, trong đó có việc phát triển “bất bình thường” của Kitô giáo hiện nay ở các vùng dân tộc thiểu số, nhất là vùng đồng bào Mông, một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cộng đồng Khơme Nam Bộ. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về các tổ chức phản động ở nước ngoài từ lực lượng cầm đầu, âm mưu cụ thể của các thế lực thù địch ở Mỹ và phương Tây gắn với Tin Lành Đề ga, phong trào Khơme Krom; phong trào Tổ quốc Mông... nhằm mưu đồ thực hiện chủ nghĩa ly khai phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...