Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2018

Việt Nam không đi với nước này để chống lại nước kia


Sau chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama, gần đây ở nước ta đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, làm dấy lên dư luận: liệu Việt Nam có đi theo Mỹ để kiềm chế hoặc chống lại Trung Quốc không?

Trong một bài viết mới đây trên tờ Global Times  (Thời báo Hoàn cầu), Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng, Quyền Giám đốc Học viện Quan hệ Quốc tế Việt Nam đã quả quyết, chuyện này sẽ không  xảy ra.

Như chúng ta đã biết Tổng thống Mỹ Barack Obama là vị Tổng thống thứ ba của Mỹ đến thăm Việt Nam kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Sau chuyến thăm được dư luận đánh giá: Tổng thống BarackObama đã góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai quốc gia một thời đã từng là cựu thù của nhau. Trong bối cảnh thế giới, khu vực đang có sự chuyển hướng, nhất là mối quan hệ Mỹ -Trung, vai trò ngày càng lớn của ASEAN như một người “điều khiển cuộc chơi” chính trong quá trình xây dựng cấu trúc an ninh khu vực, và các diễn biến gần đây liên quan đến Biển Đông. Chuyến thăm của Tổng thống Obama đã làm dấy lên nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng “Mỹ đã dỡ bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam. Việt Nam đã mời Mỹ vào cảng Cam Ranh để kiềm chế Trung Quốc? Hai nước này bắt tay nhau chống lại Trung Quốc?”. Cần phải nói ngay rằng, đây là những ý kiến không có căn cứ, vì Việt Nam không cho phép nước ngoài hiện diện quân sự trong lãnh thổ của mình hay đồn trú quân ở Cảng Cam Ranh. Tổng thống Obama tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí thể hiện mối quan hệ Việt - Mỹ  đã bình thường. Việt Nam không liên minh với nước nào để chống lại nước thứ ba.

Hãy nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan vềcác nỗ lực tăng cường quan hệ Việt - Mỹ trong một bối cảnh rộng hơn là chính sách ngoại giao của Việt Nam từ đầu những năm 1990. Từ năm 1986, Việt Nam đã theo đuổi con đường cải cách toàn diện, trong đó có chính sách ngoại giao độc lập trong đa dạng và đa hướng, với quan điểm xây dựng một môi trường hợp tác và hòa bình với bên ngoài, tạo điều kiện theo đuổi và bảo vệ các lợi ích quốc gia dân tộc như phát triển kinh tế, đoàn kết nội bộ, chủ quyền quốc gia, cũng như mô hình chính trị xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và xã hội.Tháng 7/2013, Việt Nam và Mỹ nhất trí nâng cấp quan hệ song phương lên đối tác toàn diện, nhằm thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực. Quan hệ Việt - Mỹ phát triển không ảnh hưởng tới các mối liên hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước trong khu vực.Đáng chú ý là việc cải thiện quan hệ Việt - Mỹ diễn ra song song với việc tăng cường quan hệ với Trung Quốc, một nước láng giềng lớn có vai trò ngày càng quan trọng đối với hòa bình, ổn định và phát triển, thịnh vượng của Việt Nam.

Chúng ta khẳng định: Quan hệ Việt - Mỹ không ảnh hưởng tới các mối liên hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Thay vì phải chọn một bên nào, Việt Nam đang cố gắng hết sức để tăng cường quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, và coi quan hệ với hai nước này là quan hệ các bên đều có lợi, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau...Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Việt Nam coi trọng đầu tư của Mỹ về tài chính, mở rộng thị trường, đầu tư, công nghệ và phát minh sáng chế, v.v.. Các nước khác, trong đó có Trung Quốc, đều đã củng cố quan hệ với Mỹ vì lý do tương tự. Tăng cường quan hệ Việt - Mỹ đem lại cho Việt Nam các nguồn lực cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội, phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỹ ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc định hình các cấu trúc an ninh khu vực tại châu Á - Thái Bình Dương và hỗ trợ các thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, xây dựng năng lực hàng hải để cải thiện khả năng cảnh báo trong lĩnh vực hàng hải và các năng lực an ninh biển.

Tháng 9/2011, Việt Nam và Mỹ đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương trong 5 lĩnh vực, bao gồm an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu hộ, các chiến dịch gìn giữ hòa bình của LHQ, các hoạt động nhân đạo và cứu trợ thiên tai, và hợp tác giữa các trường đại học quốc phòng và viện nghiên cứu. Trong chuyến thăm vừa qua, Tổng thống Obama đã thông báo dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

Tuy nhiên, thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ không đồng nghĩa với kiềm chế và chống lại Trung Quốc, các nước trong khu vực như một số người đã nói, đã xuyên tạc sự thật. Việc dỡ bỏ lệnh cấm trên chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung cấp trang thiết bị quân sự và đạn dược để tự bảo vệ.Hình ảnh độc lập của chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu dựa vào chính sách quốc phòng. Theo đó, Việt Nam thực hiện nghiêm ngặt “nguyên tắc ba không”: không tham gia một hiệp định quân sự và trở thành một đồng minh quân sự với bất kỳ nước nào; không cho phép bất kỳ nước nào lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình và không dựa vào bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác.

Gần đây, một số người do nhận thức không đầy đủ, không đúng bản chất vấn đề nên đề nghị Đảng, Nhà nước phải xem lại nguyên tắc này, tuy nhiên, việc kiên trì theo đuổi nguyên tắc này vẫn là quan điểm nhất quán của Việt Nam.Là một thành viên ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia các nỗ lực của Hiệp hội trong việc thu hút tất cả các nước lớn thông qua các cơ chế hợp tác do ASEAN đứng đầu, với chủ trương ASEAN không phải là một hiệp định quân sự hay nằm dưới sự ảnh hưởng của một nước lớn nào, mà là một tổ chức thúc đẩy ngoại giao để giải quyết những bất đồng.Việc nghiêng về một bên nào đó là không hợp lý và không khả thi, vì cả Mỹ và Trung Quốc, bất chấp những bất đồng của họ, đều đang phối hợp dựa trên một quan hệ kiểu mới coi trọng việc tránh đối đầu quân sự, đồng thời thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực.

Là một nước theo dõi sát diễn biến mối quan hệ Mỹ - Trung, Việt Nam lo ngại nếu xảy ra các kịch bản Bắc Kinh và Washington trực tiếp đối đầu hoặc thỏa hiệp với nhau, gây khó khăn cho các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.Lo ngại của Việt Nam không phải là không có cơ sở, vì lịch sử đã cho thấy: Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm trong quan hệ Mỹ - Trung trong thời Chiến tranh Lạnh.Vì vậy, lựa chọn chính sách tốt nhất đối với Việt Nam là là bạn, là đối tác, hợp tác với cả Mỹ và Trung Quốc, chủ động hội nhập trong ASEAN và thế giới, tuân thủ các nguyên tắc toàn cầu của luật pháp quốc tế cũng như các chuẩn mực khu vực đã được thiết lập về cách hành xử và bộ quy tắc ứng xử. Sự cải thiện trong quan hệ Việt - Mỹ sẽ củng cố xu hướng này, góp nhần gìn giữ môi trường hòa bình, sự ổn định để phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Theo Đảng là con đường duy nhất đúng


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện chính trị quan trọng đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, Đảng đã soi sáng con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, đã đưa đường chỉ lối cho dân tộc ta đến với tự do, độc lập. Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, trước hết được bắt nguồn từ đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, khi chưa có một chính Đảng lãnh đạo, đất nước chìm đắm trong đêm dài nô lệ, bởi sự nô dịch, đàn áp, bóc lột của thực dân - phong kiến. Trong suốt tiến trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hàng vạn đảng viên cộng sản đã hy sinh trong ngục tù của thực dân, đế quốc, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ bản lĩnh, năng lực, uy tín, kinh nghiệm lãnh đạo được cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chính trị ổn định, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo đã làm cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có bước phát triển mới. Quốc phòng và an ninh được giữ vững và tăng cường. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta giành được trong công cuộc đổi mới đất nước đã góp phần khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, khẳng định vai trò và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.

Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay, càng cần có sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta cũng thừa nhận rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm, nhưng sau mỗi lần như vậy Đảng ta đã nghiêm khắc sửa chữa, được nhân dân ủng hộ và uy tín của Đảng càng được củng cố vững chắc thêm. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, thổi phồng những sai lầm, khuyết điểm, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải cảnh giác, tỉnh táo trước những luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực phản động, không chỉ nhìn vào một số khuyết điểm, tiêu cực trong xã hội mà mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ. Phải luôn nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện cả thành tựu và hạn chế, cả hiện tại và tương lai, có sự phân tích và suy ngẫm một cách thấu đáo. Những hạn chế, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, những tiêu cực và tệ nạn xã hội là cái khó tránh khỏi trong quá trình phát triển của đất nước. Không thể vì một số cán bộ, đảng viên hư hỏng, thoái hóa, biến chất mà phủ nhận cả một sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng.

Phía trước có không ít khó khăn, thách thức và thuận lợi đan xen, nhận thức sâu xa trách nhiệm của mình là đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vươn lên tầm cao mới, đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của đất nước ta, dân tộc ta trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đáp ứng lòng mong đợi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; được triển khai kịp thời và sâu rộng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, đảm bảo phát huy vai trò, chức năng của từng tổ chức trong hệ thống chính trị theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sức mạnh của Đảng phải được nhân lên từ mỗi đảng viên từng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong niềm vui đón xuân và kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng, mỗi đảng viên nhận rõ hơn nhiệm vụ, tạo bước chuyển biến trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị ở đơn vị cơ sở - giải pháp cấp bách về công tác xây dựng Đảng trong Quân đội hiện nay


Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở đơn vị cơ sở nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, kiên định, nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật, củng cố giữ vững và phát huy phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.

Trong quá trình tổ chức, thực hiện cho thấy, bên cạnh kết quả đạt được, còn không ít hạn chế, khuyết điểm: “Công tác giáo dục chính trị còn có nội dung, có mặt chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn, chưa đáp ứng điều kiện cơ bản của mục tiêu giáo dục chính trị tại đơn vị. Việc đổi mới kết cấu chương trình, nội dung giáo dục chính trị còn chậm, chất lượng một số tài liệu giáo dục chính trị chưa cao, nhất là tính định hướng chính trị tư tưởng. So với sự phát triển của thực tiễn, xu thế hiện đại hóa và sự bùng nổ thông tin, nhu cầu nhận thức của các đối tượng giáo dục thì việc đổi mới công tác giáo dục chính trị có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới”. Hình thức, phương pháp giảng dạy chính trị cho các đối tượng chậm đổi mới, phương tiện lạc hậu, chưa thật sự phong phú, sinh động hấp dẫn, thu hút bộ đội; ứng dụng công nghệ thông tin, các mô hình, học cụ sáng tạo vào giáo dục chính trị còn hạn chế. Chất lượng cán bộ giảng dạy chính trị tại các đơn vị chưa đều; trình độ, kiến thức, năng lực thực hiện chức trách, nhất là năng lực sư phạm của đội ngũ cán bộ chính trị đại đội, cán bộ trung đội trưởng còn hạn chế. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ quan cần đặc biệt chỉ rõ: “Một số cấp ủy, chỉ huy nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quan tâm đến công tác giáo dục chính trị; một số nhận thức chưa khách quan, toàn diện, còn đổ lỗi mọi khuyết điểm vi phạm của bộ đội là do công tác giáo dục chính trị, dẫn đến thiếu đồng bộ trong triển khai các biện pháp lãnh đạo, quản lý; việc lãnh đạo phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong giáo dục chính trị hiệu quả chưa cao. Một số cơ quan chính trị, trực tiếp là cơ quan tuyên huấn chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm, đề xuất, tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo còn hạn chế; đổi mới chưa mạnh; thiếu coi trọng các khâu, các biện pháp đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tại đơn vị.”. Có thể khẳng định đây là một nguyên nhân cơ bản làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, thiếu niềm tin vào Đảng. Tiếp tục quán triệt và thực hiện Quyết định của Bộ trưởng Bộ quốc Phòng về thực hiện đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị cơ sở trong giai đoạn mới” đặt ra cho cấp uỷ, chỉ huy đơn vị phải tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản, trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng; nâng cao ý thức, trách nhiệm, trình độ năng lực tổ chức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là chính uỷ, chính trị viên (cán bộ đảm nhiệm CTĐ,CTCT nơi không có chính ủy, chính trị viên) trong tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.

Trước hết, tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở đơn vị cơ sở trong quân đội là trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng, của cán bộ, đảng viên, trong đó cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ mà trực tiếp là chính uỷ, chính trị viên các cấp giữ vai trò “trung tâm, then chốt” trong việc tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở đơn vị. Xây dựng các cấp uỷ, tổ chức đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị của đơn vị; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu và tính sáng tạo của các tổ chức đảng, nhất là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Thường xuyên đổi mới công tác lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp; bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quán triệt, thực hiện các nghị quyết về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cấp uỷ các cấp, phải đảm bảo tính toàn diện và biết tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động công tác tư tưởng đi sâu vào những nhiệm vụ cơ bản, những khâu then chốt, dứt điểm những vấn đề cụ thể, thiết thực, bức xúc đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.

Hai là, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp các hoạt động công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng ở đơn vị cơ sở trong quân đội.

Thực chất của việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đó là sự kế thừa và điều chỉnh, bổ xung, phát triển một cách toàn diện nội dung, hình thức, phương pháp tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên để phù hợp với nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội và đơn vị hiện nay. Nội dung giáo dục phải toàn diện, phải tập trung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng. Tuyên truyền, giáo dục nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, chiến sĩ, làm cho họ hiểu đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm, từ đó có mục đích, động cơ, thái độ đúng đắn, có phương pháp hành động phù hợp, đạt kết quả cao trong thực hiện trách nhiệm được giao.

Tập trung nghiên cứu đổi mới, cải tiến hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng tại đơn vị. Đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh”. Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phản động để phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ, góp phần tạo nên sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong đơn vị, không để xảy ra bất ngờ, nhất là bất ngờ về tư tưởng.

Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác nâng cao chất lượng tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở.

Việc rèn luyện phương pháp tự học, tự rèn trở thành nội dung trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ. Do vậy, cấp uỷ, tổ chức đảng, chỉ huy đơn vị phải thường xuyên giáo dục, quán triệt làm cho mỗi cán bộ, đảng viên luôn nhận rõ và quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ đơn vị. Trên cơ sở đó mới làm cho mỗi cán bộ, đảng viên có nhận thức đầy đủ và sâu sắc về nhiệm vụ tự học, tự rèn nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, các phương tiện trong tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.

Mỗi tổ chức, mỗi lực lượng đều có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nên cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong các hoạt động. Có như vậy mới có thể phát huy được thế mạnh của từng tổ chức, từng lực lượng để hỗ trợ cho nhau, tạo tiền đề và điều kiện cho nhau, tác động lẫn nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp để không ngừng tăng cường chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đáp ứng yêu, cầu nhiệm vụ phát triển của quân đội, của đơn vị. Không ngừng quan tâm đổi mới và nâng cao chất lượng các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp trong tiến hành tăng cường quản lý công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở đơn vị cơ sở trong tình hình hiện nay.

Sẽ là sai lầm và phản động khi cho rằng “đa nguyên chính trị, đa đảng” mới đảm bảo dân chủ ở Việt Nam


Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Chế độ dân chủ XHCN ở Việt Nam được xây dựng nhằm thực hiện quyền làm chủ của con người một cách đầy đủ, toàn diện và triệt để.

Tuy nhiên, lâu nay những luận điệu giả dối, phản khoa học  cho rằng “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” vẫn tiếp tục chống phá cách mạng, thực chất là  họ đang tiếp tục thực hiện những âm mưu, ý đồ đen tối mà thôi.

Dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi nhà nước xuất hiện và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Nó tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong những giai đoạn lịch sử tương ứng. Mỗi nước có những đặc thù và trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, lịch sử,… khác nhau, do đó có nền dân chủ khác nhau. C.Mác viết “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quy định”. Chính những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử, … quy định dân chủ chứ không phải cơ chế đa nguyên, đa đảng hay một đảng. Quan điểm cho rằng, đa đảng thì có dân chủ, một đảng thì mất dân chủ thực chất là là một trò bịp nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.

Nói dân chủ là nói đến quyền làm chủ xã hội thuộc về ai. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ của dân”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh chế độ dân chủ thực chất là chế độ ủy quyền của nhân dân vào Nhà nước và Nhà nước là cơ quan quyền lực của dân, thực thi sự ủy quyền của dân.

Còn nói đến đa nguyên chính trị là nói đến hệ thống chính trị có nhiều cực, có nhiều đảng phái đại biểu cho những lợi ích đối lập nhau được tự do hoạt động, đó là một chế độ đa đảng. Chế độ đa đảng không đồng nghĩa với việc sẽ có dân chủ, phát triển, chế độ một đảng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ. Thực tiễn cho thấy, có những nước đa đảng nhưng vẫn thuộc nhóm nước nghèo nhất thế giới. Tuy nhiên, có những những nước chỉ một đảng lãnh đạo nhưng là một nước rất phát triển với đời sống nhân dân sung túc. Điều đó có nghĩa là đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho phát triển.

Cái gốc để bảo đảm dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai. Dưới chủ nghĩa xã hội, tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động và họ là người làm chủ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất nằm trong tay một thiểu số nhà tư bản, nền dân chủ đó là quyền làm chủ của một nhóm tư bản độc quyền. Còn quần chúng nhân dân chỉ là những người bị thống trị. Chính V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả, để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước”.

Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản ở phương Tây chỉ là sự phân chia quyền lực giữa các phe cánh. Thực chất, chế độ đa đảng đó dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, đều là đảng của giai cấp tư sản. Còn một số nước tư bản phương Tây khác, mặc dù Đảng cộng sản có thể được cho tồn tại nhưng nếu giai cấp tư sản cảm nhận thấy sự tồn tại đó có khả năng uy hiếp, đe dọa đến sự lãnh đạo, thống trị xã hội của họ thì ngay lập tức, Đảng cộng sản đó sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cho nên, thứ dân chủ mà họ thường khoe khoang đó chỉ là thứ dân chủ giả hiệu.

Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại và nguyện vọng của  nhân dân, đó là sự lựa chọn bảo đảm cho dân chủ được thực hiện thực sự trong đời sống xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, mọi sự tìm kiếm nào khác nhằm “đa nguyên chính trị, đa đảng” ở Việt Nam sẽ là mơ hồ mất, phương hướng chính trị - giai cấp và ảo tưởng, phản động.

Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay


1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay

Cách mạng nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thời cơ lớn cùng những thách thức không nhỏ. Trước mục tiêu đặt ra là đến giữa thế kỷ XXI, nước ta là một nước công nghiệp hiện đại, đòi hỏi phải có một nền kinh tế thị trường hoàn thiện, với tăng trưởng cao, ổn định và bền vững.

Để đạt được những mục tiêu đã xác định và khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì yếu tố quan trọng quyết định nhất là phát huy nhân tố con người. Với tính cách là gốc của người cách mạng, là tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ, đảng viên và là nền tảng của các yếu tố khác trong nhân tố con người - đạo đức và việc giáo dục đạo đức trở lên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.

Mặc dù nhận thức rõ tầm quan trọng của đạo đức và đã có nhiều chủ trương, biện pháp với những hoạt động cụ thể để giáo dục đạo đức cách mạng, nhưng hiệu quả chưa đạt được như mong muốn. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn tồn tại; hiện tượng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn có diễn biến phức tạp; nhiều chuẩn mực đạo đức trong gia đình, trong cơ quan công sở, trường học cũng như ngoài xã hội bị coi nhẹ; hiện tượng xâm hại tính mạng, tài sản của công dân có diễn biến phức tạp; lối sống thực dụng, đề cao vật chất và vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên ngày càng tăng. Tình hình trên đây chẳng những đã và đang phần nào làm cho hình ảnh người Việt Nam xấu đi trong con mắt người nước ngoài, mà còn tạo nên tâm lý bất an trong nhân dân, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh việc lợi dụng tất cả các hạn chế tiêu cực nêu trên để đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng cũng như trong xã hội ta. Hoạt động tuyên truyền các giá trị phi vô sản; mua chuộc, lôi kéo làm tha hóa cán bộ, đảng viên; truyền bá lối sống thực dụng trong giới trẻ; xuyên tạc chủ trương, đường lối và nói xấu cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; chia rẽ nhân dân với Đảng, quân đội với Đảng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; kích động gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đang là những thủ đoạn thâm độc của “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta hiện nay. Để làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn trên đây, điều hết sức quan trọng là nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và toàn xã hội.

2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay

Thứ nhất, xác lập, bổ sung và hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới và làm tốt công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân và hình thành dư luận mạnh mẽ trong đấu tranh với các hành vi vô đạo.

Cách mạng là một sự nghiệp lâu dài, được tiến hành qua nhiều giai đoạn với những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau. Theo đó, đạo đức cách mạng về bản chất, mục tiêu là không thay đổi nhưng cách biểu hiện của nó thông qua hành vi ứng xử của con người có những yêu cầu mới. Ngày nay, đất nước đã có độc lập, thống nhất, đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hành vi thể hiện các chuẩn mực đạo đức có sự thay đổi về chất với yêu cầu ngày càng cao.

Để xác lập, bổ sung và hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức mới đòi hỏi phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, các chuẩn mực đạo đức cách mạng chung nhất và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh... Mặt khác, các chuẩn mực đó còn phải được xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, lứa tuổi của mỗi đối tượng trong các tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho mỗi người dễ nhớ, dễ thực hiện. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, các chuẩn mực đạo đức mới còn phải phù hợp với luật pháp quốc tế và các giá trị chung của nhân loại. Việc xác lập các chuẩn mực đạo đức cụ thể sẽ là cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, biểu dương, khích lệ hoặc kiểm tra, giám sát và đấu tranh phê phán khi cần. Cùng với việc xác lập và hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cụ thể, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chuẩn mực đó trên các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Trên cơ sở đó kịp thời nhân rộng các tấm gương đạo đức và tạo dư luận mạnh mẽ đấu tranh với các hành vi coi thường pháp luật, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội.

Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức trong hệ thống nhà trường phổ thông. Đây là một khâu quan trọng trong quá trình xây dựng nền đạo đức mới, bảo đảm sự thống nhất nhận thức về đạo đức trong xã hội. Tuy nhiên, cần đổi mới nội dung, hình thức giáo dục theo hướng cụ thể, thiết thực. Biện pháp này đòi hỏi trước hết ngành giáo dục phải có sự đầu tư thích đáng cho môn học giáo dục công dân, nâng cao yêu cầu và vị thế của môn học này trong đánh giá học sinh ở tất cả các cấp học. Mặt khác, các cơ sở giáo dục phải xây dựng được một môi trường sư phạm trong sạch, chuẩn mực, mọi hành vi ứng xử giữa thày với thày và thày với trò phải thực sự mẫu mực để học sinh noi theo. Bên cạnh đó, các giáo viên đảm nhiệm môn giáo dục công dân trong nhà trường phải thật sự tiêu biểu về đạo đức, lối sống và phong cách sư phạm.

Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong nhà trường cần tiến hành đồng bộ các hoạt động như: thiết kế nhiều hình thức khác nhau cho môn giáo dục công dân, nhằm đưa học sinh vào các tình huống cụ thể với những yêu cầu cần xử lý; kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa nhà trường với gia đình trong giáo dục, rèn luyện các hành vi đạo đức của học sinh; duy trì nghiêm nề nếp, chế độ, nội quy của nhà trường; biểu dương, khen thưởng kịp thời những tấm gương đạo đức đi đôi với xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm nội quy trường học, nhất là tình trạng bạo lực học đường.

Thứ ba, đề cao vai trò làm gương trong giáo dục đạo đức cách mạng. Việc làm gương trong giáo dục cũng như trong quản lý xã hội luôn có vị trí, vai trò quan trọng. Người xưa đã khẳng định, nếu người trên mà nghiêm minh, ngay thẳng thì dưới không thể không nghiêm. Là người quan tâm nhiều nhất đến thực hành đạo đức cũng như giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Do đó, nói đi đôi với làm, ý thức đạo đức đi đôi với thực hành đạo đức, giao giảng đạo đức đi đối với làm gương về đạo đức là nguyên tắc xây dựng đạo đức mới trong tư tưởng của Người.

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho công tác giáo dục đạo đức trong thời gian vừa qua được đề cập nhiều nhưng hiệu quả chưa cao là bởi việc làm gương chưa thật tốt. Vì vậy, một trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức hiện nay là làm thế nào để mọi người đều ý thức và tự giác trở thành tấm gương trong thực hành đạo đức. Biện pháp này đòi hỏi mọi chủ thể giáo dục đạo đức đều phải trở thành tấm gương với những cấp độ, phạm vi khác nhau phù hợp với đối tượng giáo dục của mình như: trong gia đình; trường học; công sở; cơ quan; đơn vị; công ty, doanh nghiệp…Việc làm gương phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi

Để thực hiện biện pháp này, cần làm tốt công tác tuyên truyền về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc làm gương trong giáo dục đạo đức, kịp thời phát hiện, biểu dương những người đứng đầu thực sự gương mẫu. Đồng thời, cần tạo dư luận phê phán và có biện pháp cụ thể với những người đứng đầu các cơ quan đảng, chính quyền có trách nhiệm làm gương nhưng không nêu gương. Việc nêu gương về đạo đức cách mạng cần phải trở thành một tiêu chí trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và tiêu chí này càng quan trọng đối với những đảng viên có chức, có quyền.

Thứ tư, tạo ra môi trường cần thiết cho sự phát triển của đạo đức; tăng cường pháp chế và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Với tính cách là sản phẩm của tồn tại xã hội, do đó, để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng hiện nay, trước hết cần tạo ra một hiện thực xã hội như là một mảnh đất tốt để các chuẩn mực đạo đức cách mạng tồn tại và phát triển. Nếu việc tạo ra môi trường là điều kiện cần, thì việc tăng cường pháp chế và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật là điều kiện đủ để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng.

Biện pháp này đòi hỏi, Đảng ta phải luôn kiên định và nhất quán với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, sớm hoàn thiện thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong các tầng lớp nhân dân; bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa là không thể thiếu trong quá trình nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng./.

Lòng yêu nước đã bị lợi dụng để biến thành hành vi "phản nước hại dân"


Những ngày vừa qua dư luận cả nước không khỏi sửng sốt, bàng hoàng, phẫn nộ trước những hành vi kích động, lôi kéo tụ tập đông người đập phá trụ sở công quyền, hủy hoại tài sản, tấn công chống người thi hành công vụ xảy ra ở một số địa phương của những kẻ nhân danh “người yêu nước”, bày tỏ “chính kiến” đối với Dự luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt (Dự luật Đặc khu) xảy ra ở một số địa phương.

Chứng kiến hình ảnh những kẻ quá khích, hầu hết là những thanh, thiếu niên “choai choai” không hiểu biết gì về luật Đặc khu, chưa nhận thức rõ được quyền và nghĩa vụ công dân, không hiểu mục đích đi “biểu tình” để làm gì, nhưng “sẵn sàng” nghe theo những lời kích động vu vơ để lao vào đập phá, tấn công các lực lượng chức năng khiến chúng ta phải đặt câu hỏi vậy kẻ đứng đằng sau thực sự là ai? Và tại sao lại để xảy ra tình trạng đáng tiếc nói trên mà không được phát hiện, ngăn chặn và xử lý sớm hơn?
Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định, trải qua hơn 30 năm đổi mới toàn diện, bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có sự thay đổi căn bản, các tiềm năng, nguồn lực của đất nước ngày càng được khai thác, sử dụng tốt hơn phục vụ cho mục tiêu phấn đấu đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, những lợi thế vốn có của chúng ta về tài nguyên, dân số đông, lao động giá rẻ… đã dần tới hạn. Trong khi xu thế toàn cầu hóa, hợp tác và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, quốc gia nào cũng phải tìm cách tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới để tạo động lực phát triển bắt kịp cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0, và một trong những cách thức đó là sáng tạo mô hình đặc khu kinh tế. Đó là nơi thử nghiệm các cơ chế, chính sách, bộ máy có tính chất vượt trội, có sức hấp dẫn lớn về đầu tư, thương mại, dịch vụ, công nghiệp, khoa học - công nghệ… song khó có thể áp dụng đại trà, nhờ đó tạo động lực đủ mạnh có thể làm đầu tàu, cực tăng trưởng để lan tỏa ra cả nước.Thực ra các đặc khu kinh tế đã ra đời từ trên nửa thế kỷ trước và cho đến nay, trên thế giới đã có hàng ngàn đặc khu kinh tế ra đời và đa số là thành công. Đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta quyết tâm hình thành ba đặc khu kinh tế trong tương lai ở cả ba miền đất nước. Rõ ràng, bối cảnh mới đòi hỏi việc xây dựng thể chế, chính sách đối với các đặc khu kinh tế ở Việt Nam cũng phải tính đến các yếu tố bảo đảm tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các mô hình đặc khu đã có, kết hợp với các tiềm năng, lợi thế và nguồn lực khác tạo động lực mới đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế quốc gia hơn nữa.
Mục tiêu cao nhất xây dựng đặc khu kinh tế có lẽ chỉ có vậy. Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới mẻ, quá trình xây dựng luật về đặc khu cần phải thỏa mãn nhiều điều kiện khác nhau, thậm chí ngáng trở nhau, trong đó có những điều kiện khá phức tạp, nhạy cảm đối với an ninh - quốc phòng, dẫn đến có những ý kiến khác nhau cũng là lẽ thường tình. Chủ trương xây dựng đặc khu kinh tế đã có từ hơn 20 năm trước, nhưng đến nay mới đủ chín muồi để dần trở thành hiện thực. Cũng chính vì tính chất phức tạp của nó, nên quá trình xây dựng luật về đặc khu đã được các cơ quan chức năng chuẩn bị một cách kỹ lưỡng với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, hoạch định chính sách trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, luật pháp… để đến kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIV Dự luật Đặc khu được đưa ra bàn thảo và dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ năm. Khi thấy còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất tại diễn đàn Quốc hội, ngày 7/6/2017 Chính phủ đã thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị và được Quốc hội nhất trí lùi thời điểm thông qua Dự luật Đặc khu sang kỳ họp sau nhằm tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Đây là quyết định sáng suốt, thể hiện sự cầu thị, dân chủ, sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu đóng góp trí tuệ toàn dân của Chính phủ và Quốc hội để có thể hoàn thiện ở mức cao nhất dự luật quan trọng này.
Có nhiều vấn đề đặt ra và cần giải quyết từ các sự kiện nói trên. Trước hết, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, xây dựng pháp luật theo hướng quy tụ, phát huy tối đa sự đóng góp trí tuệ, tài năng của các chuyên gia, nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức, các nhà lãnh đạo, quản lý, doanh nhân… Nếu làm được tốt vấn đề này, các dự án luật nói chung, Dự án Luật Đặc khu nói riêng sẽ đạt được sự đồng thuận cao hơn ngay tại kỳ họp Quốc hội kỳ này.
Thứ hai, cần đổi mới hơn nữa cả về nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mỗi người dân có thể nắm rõ những nội dung cốt lõi của các bộ luật cũng như dự thảo luật; khuyến khích tạo lập nhiều diễn đàn khác nhau nhằm tăng cường dân chủ, tranh luận, phản biện, tiếp thu các ý kiến đa chiều trong xã hội đối với mỗi dự thảo luật cần lấy ý kiến đóng góp của người dân để đi đến thống nhất một cách dân chủ, công khai, minh bạch. Hết sức coi trọng vai trò định hướng, tạo dư luận của báo chí, truyền thông và ý kiến của giới chuyên gia, các nhà lãnh đạo, quản lý, những người có uy tín, ảnh hưởng trong xã hội. Khi người dân chưa được tiếp cận, chưa hiểu biết đầy đủ về pháp luật thì công tác tuyên truyền, hệ thống truyền thông và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp cơ sở cần phát huy hơn nữa chức năng, vai trò, vị trí của mình để cùng góp phần tuyên truyền, phổ biến, đưa pháp luật vào mọi ngõ ngách của đời sống một cách thiết thực, hiệu quả.
Thứ ba, với tư cách là những công dân yêu nước, hãy biểu thị lòng yêu nước một cách có văn hóa, đúng pháp luật, mỗi người dân cần hết sứccảnh giác, bình tĩnh, tỉnh táo tiếp nhận đối với bất cứ những thông tin, sự kiện có tính chất phức tạp nào, không hiếu kỳ, a dua chạy theo tâm lý đám đông mà vô tình hay hữu ý mắc bẫy kẻ xấu đi đập phá ngay chính tài sản do mình tạo ra hay đóng góp, đi tấn công, hành hung gây thương vong cho chính con em, đồng bào của mình. Thế giới sẽ nhìn nhận Việt Nam thế nào đây khi hàng triệu con người đang ra sức dựng xây, gìn giữ, bảo vệ hình ảnh một đất nước của hòa bình, thanh bình, thân thiện mến khách, an toàn, năng động, hấp dẫn… bỗng nhiên bị “mấy người yêu nước” làm vấy bẩn một cách “kinh hoàng, không ai tưởng tượng được”. Đấy không phải là lòng yêu nước, mà chính là hành vi “phản nước hại dân” cần bị lên án và nghiêm trị. Đây không phải là lần đầu tiên diễn ra “sự việc đáng tiếc” mà sao nhiều người “yêu nước” vẫn “ngây thơ” bị mắc lừa, chưa chịu mở mắt để nhìn nhận hậu quả nghiêm trọng đã và đang xảy ra đối với chính bản thân, gia đình và xã hội. Phải chăng vì thiếu hiểu biết, hay vì một chút lợi ích cỏn con mà người ta sẵn sàng làm những điều ác với chính đồng bào của mình, hoặc thấy người khác ra tay làm điều ác còn mình vẫn thờ ơ, thản nhiên “đứng xem”, cổ vũ? Khi sự việc đã qua đi, họ có tự lục vấn lương tâm mà “ăn năn, hối lỗi” để không có “lần sau”?
Cuối cùng, tại sao chúng ta có cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở với vô số các tổ chức hội, cơ quan, tổ chức hành chính, sự nghiệp… song chúng ta vẫn bị động, bất ngờ, thiếu dự báo và kiểm soát trước những vụ việc có tính chất nghiêm trọng, lôi kéo đông người, phức tạp… diễn ra ở Bình Thuận và một số địa phương vừa qua, mà đáng ra phải sớm được phát hiện, ngăn chặn và khi xảy ra cần được giải quyết kịp thời, tránh để leo thang, lan rộng, kéo dài tạo thành “điểm nóng”. Chúng ta phải nghiêm khắc kiểm điểm trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức đã làm tròn trách nhiệm với vai trò, chức năng, nhiệm vụ được giao phó? Đã thực sự gần dân, hiểu dân hay “có lỗi” gì với dân mà để dân “bức xúc” đập phá bừa cho “hả giận”? Các cơ quan chức năng cần khẩn trương điều tra, làm rõ vai trò và trừng trị thích đáng theo pháp luật những kẻ cầm đầu, những đối tượng phản động, cơ hội, bất mãn hay vì bất cứ lý do gì gây ra vụ việc vừa qua. Phát huy vai trò nòng cốt của tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ đảng viên trong công tác vận động quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; đồng thời cần kiên trì cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ,kiên quyết chống mọi biểu hiện đi ngược lại mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” do nhân dân ta đã lựa chọn./.

Không thể có chuyện niềm tin của nhân dân với Đảng đã hết


Niềm tin là một trạng thái tình cảm đặc biệt trong sâu thẳm mỗi con người tin tưởng vào một điều gì đó sẽ định hướng suy nghĩ và hành động, tạo nên ý chí và sức mạnh. Nhân dân ta tin tưởng vào Đảng, vào sự sáng suốt, anh minh của Đảng cách mạng dẫn đường.

Cả dân tộc gọi Đảng là Đảng ta trong sâu thẳm mỗi người dân Việt Nam khi nhắc đến Đảng ta luôn tự hào vì Đảng như là một tài sản quí  báu của mình cảm nhận ở đây một sự thiêng liêng, cao quí, Đảng của niềm tin. Niềm tin ấy không phải tự có được, không phải ngẫu nhiên. Niềm tin đó được hình thành thấm đậm vào lòng dân qua sự kiểm chứng khắt khe của một hành trình lịch sử dân tộc từ khi có Đảng. Đảng đã gánh vác và làm tròn sứ mệnh lớn lao mà dân tộc giao phó. Không ai khác, chính là Đảng ta, với trí tuệ và dũng khí tuyệt vời, đã tiên phong mở lối dẫn đường, đưa cả dân tộc ta vùng lên đánh thực dân Pháp, đuổi phát xít Nhật, chiến thắng đế quốc Mỹ, mang lại hòa bình, thống nhất đất nước. Rồi chính Đảng ta bằng sự nhạy cảm chính trị, đã lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập mở cửa, giành được những thành tựu hết sức to lớn.

Có niềm tin sâu sắc của nhân dân với Đảng, coi Đảng như tấm gương trong. Đảng càng vững mạnh và quan tâm đến nhân dân thì niềm tin càng sâu sắc, vững bền. Song hiện nay, trong đội ngũ của Đảng cầm quyền, có một số đảng viên thoái hóa biến chất. Soi vào tấm gương Đảng. Lòng dân không khỏi băn khoăn, niềm tin với Đảng không khỏi giảm sút. Điều cần khẳng định là tuyệt đại bộ phần nhân dân vẫn giữ niềm tin với Đảng, chỉ mất niềm tin vào những đảng viên cụ thể, nhất là những đảng viên có chức, có quyền bị thoái hóa, biến chất; chức càng cao khi nhân dân thấy rõ những biểu hiện hư hỏng sẽ càng bức xúc. Nhân dân còn bất bình với một số đảng viên quyền cao chức trọng, chưa biến chất nhưng thiếu dũng khí đấu tranh, dĩ hòa, vi quý, không dám chịu trách nhiệm để loại trừ cái sai, bảo vệ cái đúng.

 Để củng cố niềm tin của nhân dân, Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, tự đổi mới, chỉnh đốn, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị làn thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XI, tiến hành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, đấu tranh tự phê bình và phê bình ở mọi cấp bộ Đảng, với mọi đảng viên. Qua đượt sinh hoạt này chúng ta rút ra được những bài học sâu sắc. Vấn đề quan trọng nhất là thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ, mỗi cán bộ đảng viên phải là công  bộc của nhân dân. Đảng từ nhân dân mà ra, là con nòi của dân tộc. Nhân dân tin yêu Đảng và biết ơn Đảng vì toàn bộ sự nghiệp của Đảng là mang lại lợi ích cho dân tộc, cho toàn thể nhân dân. Đảng biết ơn nhân dân vì sự chở che, đùm bọc trong niềm tin vô bờ bến. Mối quan hệ của Đảng với nhân dân mãi mãi là quan hệ máu thịt trên cơ sở niềm tin son sắt. Đó là động lực mạnh mẽ nhất để đưa đất nước ta tiếp tục vững bước đi lên./.

Học tập và làm theo phong cách quần chúng Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng


Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng hàng đầu trong phong cách làm việc của Hồ Chí Minh.

Nó được thể hiện bằng những hành động cụ thể như: Sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống của quần chúng; Tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình; Giáo dục lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần chúng, tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng theo tinh thần lãnh đạo là đầy tớ của nhân dân, nhân dân làm chủ. Đặc biệt, tự mình phải mực thước để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng nhân dân. Do đó, trong thực tiễn, Hồ Chí Minh thường yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Người đã nhiều lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt “quan cách mạng”, “quan nhân dân”, không thấy mình là người đầy tớ, người học trò của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên thấu triệt và thực hiện quan điểm “dân là gốc”, mọi thắng lợi đều “trên nền nhân dân” và chính Người là tấm gương mẫu mực về vấn đề này. Với cương vị chủ tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, nhưng Hồ Chí Minh không xa cách với quần chúng, Người luôn sâu sát với thực tiễn, gần gũi nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui, nỗi vất vả, nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân từ nông dân, công nhân, bộ đội, phụ nữ, thanh niên, đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đồng. Sự gần gũi đó của Người được thể hiện ngay từ phút đầu tiên Người ra mắt quốc dân đồng bào chiều ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945. Khi vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Người đã dừng lại hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”. Chỉ là một câu hỏi thôi, một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng bào toàn quốc!. Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang trọng nhất.

Trong tư liệu thấy rằng trong vòng 10 năm (1955 - 1965 tức là từ ngày hòa bình lập lại đến khi chuẩn bị kháng chiến chống trả máy bay Mỹ đánh phá ở miền Bắc) Bác Hồ của chúng ta thực hiện khoảng 700 cuộc đi đến các hợp tác xã, các bệnh viện, nhà máy, xí nghiệp, các đơn vị bộ đội….Cách đi của Bác là chuẩn bị rất kỹ để về nghe tiếng nói của nhân dân, để nhân dân nói thật, nói đúng, để từ đó điều chỉnh chính sách, điều chỉnh cách thức lãnh đạo, điều chỉnh mệnh lệnh quản lý để không trở nên giáo điều. Đi thăm địa phương, cơ quan, đơn vị nào bao giờ Bác cũng đề nghị cơ quan tham mưu giúp việc cho Bác nắm thật chắc công việc, đặc biệt là phát hiện những vấn đề khó khăn ở địa phương, cơ quan, đơn vị đó. Bác chủ động tìm đến các địa chỉ, đến người dân để tìm hiểu đời sống của nhân dân, để từ đó nghe được tiếng nói của cuộc sống, từ đó mà nghĩ ra cách làm, nghĩ ra những quyết sách có lợi cho nhân dân nhất.

 Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc hết lòng, hết sức vì quần chúng, vì nhân dân, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng của cá nhân vì lợi ích của quần chúng của nhân dân. Đây là một đặc điểm có tính chất đặc trưng trong phong cách quần chúng, phong cách nhân dân của Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Cả đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Theo Người đã coi trọng nhân dân thì phải biết hy sinh vì nhân dân. Chứ đánh giá cao nhân dân nhưng mà đến với nhân dân chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân mình, cái gì cũng cục bộ, địa phương, tự tư, tự lợi thì dân sẽ không nghe. Nhiều nhà nghiên cứu khi bàn đến phong cách quần chúng, phong cách nhân dân Hồ Chí Minh đã thống nhất theo ba lộ trình: Một là, phải được dân tin; Hai là, phải được dân nghe, dân theo; Ba là, dân sẵn sàng thực hiện, thực hành mọi mệnh lệnh mà Đảng, Nhà nước ban ra (đây là vấn đề quan trọng nhất), tức là nghe rồi, hiểu rồi bắt đầu thực hiện. Bởi, theo Hồ Chí Minh dân thực hành trước hết là vì lợi ích của chính họ. Khi nói chuyện với đồng bào tại Chiến khu Việt Bắc tháng 2 năm 1947 Bác Hồ nói: Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi ích cho dân, đấy là một nội dung của tác phong quần chúng. Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh xét đến cùng đó là phong cách dân vận, phong cách vận động quần chúng, để làm cho Dân tin Đảng, tin Nhà nước và để làm cho Đảng, cho Nhà nước hiểu được những gì Dân đang cần. Vì vậy, xa rời quần chúng, người cán bộ, đảng viên sẽ giống như cá bị tách ra khỏi nước, mất hết khả năng và sức sống.

Thấu triệt những tinh thần trên, trong điều kiện hiện nay chúng ta phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy và phong cách độc lập, tự chủ, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có bản lĩnh chính trị vững vàng, biết đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân mình. Điều này trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nói và thực hành. Đến nay, được Đảng ta xác định rõ ở mục tiêu chỉ đạo trong Nghị quyết Trung ương IV khóa XII của Đảng, đó là: “Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”. Theo đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thương yêu quần chúng, thấu hiểu, chia sẻ với quần chúng, cùng làm với quần chúng, học hỏi quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng v.v.. Đây là những điều sống còn nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ta hiện nay./.

Đấu tranh với luận điệu của các lực lượng phản động xuyên tạc quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân


Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TƯ về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Có thể thấy, phát triển kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế là một bước tiến lớn về nhận thức, cho thấy đây thật sự là bước đổi mới tư duy của Đảng về một thành phần kinh tế quan trọng ở hai góc độ, đó là xác lập địa vị hoạt động kinh tế cho mỗi người dân và đổi mới cách nhìn nhận, đánh giá về kinh tế tư nhân trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, trong thời gian qua, trên các trang mạng xã hội các phần tử phản động, thù địch liên tục đăng tải các nội dung xuyên tạc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

Chúng cho rằng kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên không thể có sự tồn tại của thành phần kinh tế này. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay là đang hướng nền kinh tế đi theo tư bản chủ nghĩa; thành phần kinh tế nhà nước sẽ không còn giữ vai trò chủ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể không còn là nền tảng mà kinh tế tư nhân mới là nền tảng của nền kinh tế quốc dân...

Luận điệu trên của các thế lực phản động thù địch là hết sức trắng trợn, bóp méo sự thật, nhưng cũng rất tinh vi, xảo quyệt. Điều đó cho thấy âm mưu và sự điên cuồng chống phá của chúng ngày càng quyết liệt và phức tạp hơn.

Chúng ta đều biết, đường lối kinh tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới là hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng lớn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Ngay từ Đại hội VI, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hình thức sở hữu với nhiều loại hình kinh doanh khác nhau đã được khẳng định và luôn nhất quán, trong đó kinh tế tư nhân được xác định là các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Đảng ta khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.

Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (15/7/1988) cũng như Nghị quyết TW6 khóa VI tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về địa bàn, quy mô trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Phát triển quan điểm đó, Đại hội VII tiếp tục làm rõ hơn bằng việc khẳng định vị trí “kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của nhà nước”. Đồng thời, địa vị kinh tế của mỗi người dân được xác định cụ thể “mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”. Và để thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với kinh tế tư nhân, Nghị quyết TW2 khóa VII nhấn mạnh đến việc “bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm”. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tính nhất quán lâu dài phát triển kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở mọi thành phần kinh tế đều được đối xử bình đẳng, nhà nước tạo mọi điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các doanh nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài.

Đặc biệt, bước chuyển đổi có tính chất đột phá tư duy về kinh tế tư nhân là từ sau Đại hội IX của Đảng (1/2001). Để cụ thể hóa quan điểm khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế quan trọng, lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết TW5 khóa IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” được ban hành. Các kỳ Đại hội X, XI tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt, trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.

Đến Đại hội XII (1/2016) Đảng ta đã khẳng định dứt khoát về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhấn mạnh việc “hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế”. Quan điểm của Đại hội XII đã được cụ thể hóa một cách sâu sắc và kịp thời bằng Nghị quyết 10 NQ/TW chuyên đề “về phát triển kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” đã mở ra một thời kỳ phát triển mới đầy triển vọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước nhà.

Phát triển kinh tế tư nhân là quan điểm nhất quán của Đảng ta, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn đất nước, phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có sự đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân những năm qua đã khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của Đảng. Sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch không thể làm thay đổi sự thật hiển nhiên đó.

Chủ động đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng


Trong thời gian gần đây, thông qua việc Đảng và Nhà nước ta kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên tham nhũng, trong đó điển hình như khởi tố, bắt tạm giam đối với Đinh La Thăng; khởi tố, phát lệnh truy nã quốc tế và bắt giam đối với Trịnh Xuân Thanh; đồng thời xử lý kỷ luật Đảng, chính quyền, truy tố theo pháp luật đối với nhiều cá nhân có liên quan, kể cả cán bộ cấp cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước.

Các thế lực thù địch, bất mãn chính trị lợi dụng cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam, bọn chúng dựng chuyện, xuyên tạc sai trái để tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng thông qua các trang mạng xã hội như: zalo, facebook, blog, ..., để truyền bá các quan điểm sai trái, tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Không gian mạng nói chung, mạng internet nói riêng được chúng coi là phương tiện chủ yếu để chuyển tải, phát tán các thông tin sai trái, thù địch đến đông đảo cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và quần chúng nhân dân.

Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống trên không gian mạng và đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại những khó khăn, bất cập trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng; không ít người trong chúng ta vẫn cho rằng chỉ cần dùng những biện pháp kỹ thuật là có thể ngăn chặn được các website, blog độc hại, coi đây là giải pháp tối ưu trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Nhưng trên thực tế, biện pháp này ngày càng bộc lộ sự hạn chế với sự ra đời của các phần mềm vượt tường lửa hay đơn giản là việc thiết lập lại địa chỉ proxy trên máy tính; hơn nữa, với công nghệ, kỹ thuật hiện nay, việc thiết lập một trang web hay tạo một tài khoản facebook chỉ mất vài phút và phần lớn mọi người chỉ cần một chút kiến thức về tin học là cũng có thể thiết lập được một tài khoản email hay vào bất cứ một trang web nào trên mạng.

Chính vì vậy, việc nhận dạng chính xác âm mưu, thủ đoạn và chủ động đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch trên không gian mạng là hết sức cần thiết; để chủ động đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch trên không gian mạng, cần thực hiện những giải pháp sau đây:

Thứ nhất, cần thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức toàn diện cho mọi người dân.

Giáo dục chính trị tư tưởng là một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng, có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao nhận thức trong phòng chống các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng. Nội dung công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải toàn diện, đồng thời phải sử dụng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sát thực tiễn, gần gũi với đời sống và thực tế học tập, công tác của cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và nhân dân. Phải chủ động phát huy hết lợi thế của mạng internet, để cung cấp thông tin, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chính trị, nhiệm vụ cách mạng cho mọi người dân, từ đó chủ động đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Thứ hai, tăng cường quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đối với các hoạt động chống phá của thế lực thù địch trên không gian mạng.

Nhà nước xây dựng, ban hành và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, thiết lập hệ thống thiết bị, cung cấp và sử dụng dịch vụ đối với việc truy cập, sử dụng mạng internet và vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Các bộ, ngành, địa phương cần có sự chung tay tham gia tích cực, chủ động vào cuộc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch trên không gian mạng. Các Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ban Tuyên giáo Trung ương với chức năng, nhiệm vụ đã được pháp luật quy định, chỉ đạo, hướng dẫn, cấp phép trong hoạt động và quản lý thông tin trên internet chặt chẽ, đúng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức cần có quy định cụ thể, chi tiết việc truy cập và cung cấp thông tin trên internet đối với cán bộ, nhân viên, đề phòng lộ, lọt thông tin. Quản lý chặt chẽ thông tin quan trọng, tránh để các thế lực thù địch có thể lợi dụng để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước. Mỗi cá nhân đang công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, những hội, ngành, nghề trọng yếu cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tuyệt đối không soạn thảo, lưu trữ các tài liệu quan trọng trên máy tính kết nối mạng và thiết bị lưu trữ ngoài không có mã cơ yếu; không đưa các thông tin, tài liệu có độ mật trên mạng truyền số liệu nội bộ để tránh các thế lực thù địch có thể lợi dụng chống phá, xuyên tạc.

Thứ ba, chủ động đấu tranh của các lực lượng chuyên trách nhằm vạch trần tính chất phản động, xuyên tạc của các quan điếm sai trái, thù địch trên không gian mạng.

Việc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng Internet không phải là việc riêng của một vài người, một vài cơ quan, tổ chức, tuy nhiên để giữ thế chủ động, đấu tranh có hiệu quả, cần xây dựng một lực lượng chuyên trách để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch. Đồng thời, chủ động cung cấp thông tin, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà. Lực lượng này phải là những chuyên gia, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, tránh bị động, bất ngờ và không để các thông tin sai trái đó lan tỏa.

Với sức mạnh của mạng internet, các thế lực thù địch luôn lợi dụng để chống phá cách mạng, chế độ ta. Sử dụng internet là nhu cầu, là công cụ để mỗi chúng ta khai thác thông tin, làm giàu vốn tri thức của mình và liên kết cá nhân trong cộng đồng mạng. Tuy nhiên, việc nêu cao cảnh giác, miễn dịch trước các thông tin sai trái và đấu tranh phản bác bỏ lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động phải được mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm nhuần và thực hiện trong công tác cũng như trong đời sống hàng ngày./.

Thỉnh ý xây dựng hay sự hiểu biết thiển cận về "quyền làm chủ của nhân dân"


Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều bài viết với thỉnh ý “Bao giờ thì dân được làm chủ”; đây thực chất là các bài viết nằm trong mưu đồ của các thế lực thù địch nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội, xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, “lái” nền dân chủ nước ta sang dân chủ khác, dân chủ phi xã hội chủ nghĩa.

Tính nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn này còn biểu hiện ở chỗ, nó dễ gây nên sự ngộ nhận, mơ hồ, lẫn lộn trong nhận thức về giá trị dân chủ, dễ gây nên sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế lực thù địch đã viện dẫn Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước ta nói về dân chủ, quy định về quyền làm chủ của nhân dân, rồi lấy vi phạm của một số cá nhân để đánh đồng với toàn Đảng và Nhà nước ta vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, hoặc quyền làm chủ của nhân dân chỉ là hình thức… Xem ra, nhìn bề ngoài dễ tin đây là thỉnh ý mang tính xây dựng, song đằng sau những lời bình luận đó lại chứa đựng sự tráo trở, cực kỳ khiên cưỡng và không thể chấp nhận được.
Xin dẫn một số nội dung để mọi người chúng ta cùng suy ngẫm về quyền làm chủ của nhân dân ta được thể hiện trên thực tế thế nào.
Cách mạng Tháng Tám thành công, toàn dân Việt Nam được đi bầu cử tự do năm 1946 với hình thức phổ thông đầu phiếu, nhân dân ta từ thân phận nô lệ, tôi tớ đã được hưởng quyền làm chủ thực sự và ngày càng được phát huy trong quá trình xây dựng xã hội mới; chế độ dân chủ đó “gấp triệu lần” hơn bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử. Nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đứng lên làm chủ, tự mình tổ chức, cai quản và xây dựng xã hội mới. Đó là thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam mà nhân dân ta đã phải đổ biết bao công sức, máu xương mới giành được chế độ dân chủ đó.
Chế độ dân chủ ở nước ta, xét về bản chất, là một thể chế chính trị mà trong đó quyền lực chính trị - xã hội thuộc về nhân dân; tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khảng định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, xác định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Như vậy, có thể nói rằng quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các văn bản Hiến pháp, pháp luật, mà ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Điều đó đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn và có sức thuyết phục. Khi đánh giá về thành tựu phát triển của Việt Nam, Giáo sư Cốc Nguyên Dương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính trị và kinh tế thế giới, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc trong trả lời phỏng vấn VOV nhân kỉ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/2010) khẳng định: “Tám mươi năm qua, nhân dân Việt Nam đã khắc phục muôn vàn khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành được nhiều thành tựu quan trọng, được cộng đồng quốc tế công nhận. Nguyên nhân quan trọng nhất làm nên những thắng lợi đó là do nhân dân Việt Nam có được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Chính từ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta mới có được nền dân chủ thực sự, nhân dân ta được làm chủ thực sự. Vì vậy, Đảng ta khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải xây dựng và không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Biểu hiện ở chỗ, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều xuất phát từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân lao động làm chủ và được phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của mình, sức lao động được giải phóng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, ở nước ta tỷ lệ đại biểu là nữ, người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo trong Quốc hội ngày càng cao, tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đứng thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đứng thứ 9/135 nước trên thế giới. Việc truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn của Quốc hội; việc thực hiện đối thoại, những cuộc tiếp xúc của các đại biểu Quốc hội với cử tri đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Điều đó thể hiện sâu sắc bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta; thể hiện rõ mục tiêu, động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng xã hội mới, việc xây dựng và phát huy dân chủ ở nước ta còn có những mặt hạn chế nhất định. Đảng không che dấu mà thẳng thắn chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Đồng thời, Đảng cũng chỉ ra những nguyên tắc, yêu cầu, biện pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, đó là: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”.
Dù còn có những hạn chế nhất định trên con đường phát triển, nhưng bản chất chế độ dân chủ ở nước ta là tốt đẹp, ưu việt và được thực hiện trên thực tế. Bản chất tốt đẹp và tính chất ưu việt đó không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả của biết bao mồ hôi, công sức và cả máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam; chúng ta phải kiên quyết bảo vệ, giữ gìn, nâng cao và phát huy hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay./.

Cảnh giác vấn đề âm mưu, thủ đoạn dùng vấn đề tự do “dân chủ tư sản”, “đa nguyên chính trị” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam


Từ năm 1986 đến nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước dấy lên một cao trào tuyên truyền cho “tự do”, “dân chủ tư sản”, “chủ nghĩa đa nguyên”. Đẩy mạnh hoạt động này, chúng nhằm hai mục đích. Thứ nhất, chúng gây sức ép với Nhà nước ta chấp nhận và hợp pháp hóa sự có mặt trên chính trường những tư tưởng tư sản và những lực lượng chính trị đối lập chống chủ nghĩa xã hội.

Đây là cái bẫy rất hiểm độc mà chúng đã từng sử dụng ở một số nước Đông Âu và Liên Xô. Nếu chúng ta không sáng suốt, tỉnh táo thì khó lường hết những hậu quả sẽ xảy ra đối với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đối với Đảng và nhân dân ta. Thứ hai, nếu như về mặt công khai, mục tiêu này không đạt được, thì việc tuyên truyền dân chủ, tự do tư sản, tuyên truyền cho đa nguyên, đa đảng sẽ kích động, khuyến khích được những người bất mãn, cá nhân chủ nghĩa, non kém về chính trị nổi lên chống chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Do đó, khi sử dụng nội dung trên đây vào các hoạt động phá hoại nội bộ Nhà nước ta, chúng đã “cấy” vào xã hội ta tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội và tạo thế cho các lực lượng phi xã hội chủ nghĩa phát triển và có chỗ đứng ở Việt Nam. Đến một lúc nào đó, khi có thêm “chất xúc tác” vào, các lực lượng này sẽ là những nhân tố tạo ra “ngòi nổ”, chống phá gây rối, làm phức tạp hóa tình hình.

Bản chất của hoạt động tuyên truyền các nội dung trên đây là chống chủ nghĩa xã hội. Nó làm tan rã, làm triệt tiêu những giá trị tư tưởng của chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nó là những yếu tố kích thích sự phát triển các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa trong lòng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tất cả những việc làm và sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên mặt trận chính trị, tư tưởng trong thời gian qua đã gây tác động tiêu cực không nhỏ đến tình hình tư tưởng - chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Những kẻ cơ hội, xét lại, những phần tử bất mãn đã không tiếc công, tiếc sức tuyên truyền cho chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa. Không ít người ngây thơ về chính trị đã ăn phải “bả độc” đó với những mức độ khác nhau.

Như vậy, các thế lực thù địch dùng vấn đề “tự do”, “dân chủ tư sản”, “đa nguyên chính trị” gây sức ép, đòi Nhà nước Việt Nam thay đổi bản chất chế độ. Do đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để bị động, bất ngờ.

Cần giữ gìn nét đẹp truyền thống "tôn sư trọng đạo"


"Tôn sư trọng đạo" là một nét đẹp truyền thống văn hoá vô cùng quý báu của dân tộc ta cần được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Đó là yếu tố quan trọng góp phần làm nên nền tảng đạo đức, sự phát triển của xã hội văn minh.

Nhân dân ta từng có những câu nói rất giản dị mà chứa đựng những ý nghĩa rất sâu sắc vừa tôn vinh người thầy, người cô vừa nhắc nhở con người phải biết sống cho phải đạo làm người. Thầy, cô là người vạch đường chỉ lối cho mỗi người "Không thầy đố mày làm nên". Vì thế vị trí của người thầy được đặt ngang hàng với vị trí của cha mẹ: "Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy". Chúng ta vẫn luôn tự nhắc mình:

Muốn sang thì bắc cầu Kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy

Người làm thầy trong bất cứ xã hội nào luôn được xã hội tôn trọng "nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Bởi vậy, "tôn sư trọng đạo" không còn là một vấn đề quan niệm sống hay quan niệm về cách cư xử mà đã trở thành một phạm trù đạo đức. Thời xưa Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu… từ người thầy đã trở thành những bậc thánh, bậc cha trong lòng học trò. Ngày nay, người thầy tuy không có vị trí tuyệt đối như thế song thầy vẫn là người được xã hội tôn trọng và "nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý". Dù ở phương Đông hay phương Tây, dù mối quan hệ thầy trò có bình đẳng đến đâu, gần gũi đến đâu thì gianh giới thầy trò, vị trí đáng kính của người thầy vẫn không hề bị mai một.

“Ơn thầy soi lối mở đường

Cho con vững bước dặm trường tương lai”.

Trên thực tế, vấn đề "tôn sư trọng đạo" ngày nay đã có nhiều điều đáng phải bàn. Các thầy, cô giáo dù phải đứng trước bao nhiêu khó khăn của cuộc sống vẫn đang ngày đêm lo lắng, nghiền ngẫm để truyền thụ cho học sinh, sinh viên và học viên những tri thức quý giá nhất. Còn học sinh, sinh viên và học viên bên cạnh những học sinh, sinh viên, học viên chăm chỉ, ngoan ngoãn, thực hiện đúng đạo làm trò, kính yêu và tôn trọng thầy, cô giáo, đã có không ít bạn chót quên đi đạo nghĩa thầy trò. Những học sinh, sinh viên, học viên ấy đã vô tình hoặc cố ý vi phạm đạo làm trò, làm đau lòng các thầy cô giáo. Đã có những câu chuyện đau lòng mà chúng ta không muốn nhắc đến như hiện tượng học trò xúc phạm thầy, cô giáo, vô lễ với những người đang ngày đêm dạy bảo mình những điều hay lẽ phải, truyền đạt cho mình những tinh hoa tri thức nhân loại. Xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục lên án những học trò đó.

"Tôn sư trọng đạo" là một truyền thống văn hoá vô cùng tốt đẹp của dân tộc. Nếu trẻ em là tờ giấy trắng thì người cầm cây bút viết lên những tờ giấy trắng ấy những dòng chữ thẳng hàng, rõ nét, rõ chữ nhất chính là thầy, cô giáo. Tôn trọng những người giữ vai trò truyền đạt tri thức nhân loại cho thế hệ sau là biểu hiện của tình yêu tri thức, của lòng ham học hỏi, của ý chí và khát vọng vươn lên cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì thế "tôn sư" không chỉ là vấn đề tôn trọng, kính yêu người làm nghề dạy học mà còn là biểu hiện của tình yêu tri thức, biểu hiện của văn minh, tiến bộ. "Đạo" cũng không chỉ dừng lại ở đạo làm trò, ở những hình thức, thái độ ứng xử với người thầy mà còn là cả vấn đề đạo đức xã hội. Đó là đạo làm người, là đạo học ở đời. Trọng đạo là coi trọng sự hiểu biết, coi trọng tinh thần ham học hỏi, đề cao truyền thống ham học.

Để xã hội ngày càng văn minh con người ngày càng phải chú ý đến chuyện học hành, tiếp thu tri thức. Vì thế, vai trò của người thầy, người cô trong xã hội hiện đại càng quan trọng, nét đẹp truyền thống "tôn sư trọng đạo" càng phải tiếp tục được kế thừa và phát huy hơn nữa.

Bước sang thế kỉ XXI, cuộc sống có nhiều đổi mới kéo theo sự đổi mới của giáo dục, của vai trò người thầy, người cô và nghề dạy học. Trên cơ sở kế thừa, giữ gìn những mặt tốt đẹp của truyền thống, chúng ta cần biết phát huy và vận dụng đạo lí tôn sư trọng đạo một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng mới để đạt kết quả tốt đẹp nhất./.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...