Xã hội hiện đại, báo
chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, ý chí của Nhà nước
và tiếng nói của nhân dân, là công cụ của tự do biểu đạt. Ngày nay, tự do ngôn
luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân
và cộng đồng, được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ, có tác động
thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ.
Để đạt được mục đích, họ thành lập một
số tổ chức nhân danh báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project
88”… để đấu tranh cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”, đưa
ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia, vu
khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Gây sức ép đòi thả tự
do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam
như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn,
Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn
Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo… Sâu xa hơn là lợi dụng danh
nghĩa đấu tranh “tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức
chống đối lật đổ chính quyền.
Cần khẳng định Việt Nam là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong
đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do
ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như
tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương
tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”.
Tuyên ngôn còn nguyên giá trị, có ý
nghĩa nhân văn cao cả, luôn được Nhà nước Việt Nam tuân thủ, kế thừa, phát
triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh. Ngược dòng lịch sử, ngày
9/11/1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, trong đó,
quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có
quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín
ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
Kế thừa quy định về quyền tự do ngôn
luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng, các bản Hiến pháp các
năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống, Quốc hội Việt Nam đã
ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí sửa đổi năm 2016. Trong đó,
Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được
cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh
bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết
tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện
kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Điều 10
của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ
quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông
tin.
Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo
chí của công dân được quy định tại Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi: “Phát biểu ý
kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến,
phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá
nhân”.
Điều 13 chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị
kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến
nay, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày
càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên
tiếng nói của mình, đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc
dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để
các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với
những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí.
Những luận điệu xuyên
tạc, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân,
không do dân và vì dân thì làm sao có thể gọi là khách quan, làm sao thể hiện
tiếng nói dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.
Hiển
nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không
phải là tự do quá trớn. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lên án, phê phán
những ý kiến với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, phát triển ở nước ta.
Mọi người dân Việt Nam phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của những phần tử phản động
Trả lờiXóa