Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2022

NVH40 - NHỮNG LUẬN ĐIỆU VÔ CĂN CỨ

 

Trong tuần qua, trên Internet và trên mạng xã hội xuất hiện nhiều tin, bài có nội dung sai trái, như: Lợi dụng kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV phê phán việc họp “không mang lại lợi ích cho người dân mà chỉ gây lãng phí tiền thuế”; xuyên tạc các nội dung thảo luận của Quốc hội và nội dung phát biểu của các đại biểu Quốc hội là “không thực tế”, “mơ hồ”, “không chất lượng”; công kích “cử tri thấy hoang mang về chất lượng các ý kiến của các đại biểu Quốc hội, nhiều ý kiến thể hiện tư duy và phương pháp kém”. Ngoài ra, họ còn xuyên tạc lý do Chủ tịch Quốc hội vắng mặt tại các phiên thảo luận với việc bịa đặt “sức khỏe của Chủ tịch Quốc hội “xuống cấp trầm trọng” sau phiên chủ trì thảo luận tại Quốc hội ngày 27/10/2022”… Trên thực tế thì những luận điệu trên có phải đúng như vậy không?

Việc Quốc hội họp một năm hai kỳ, không kể có những phiên bất thường là đã có trong Quy định về hoạt động của Quốc hội. Với chức năng của mình, Quốc hội họp để bàn và thông qua các bộ Luật hoặc là mới hoặc là bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, Quốc hội cũng theo thẩm quyền của mình cho ý kiến về những nội dung liên quan đến nhân sự của Chính phủ, về những Đề án phát triển kinh tế-xã hội với quy định mức đầu tư… Do vậy, việc Quốc hội họp là lý do hoàn toàn chính đáng chứ không phải như các luận điệu phê phán họp “không mang lại lợi ích cho người dân mà chỉ gây lãng phí tiền thuế”. Ví dụ, Chính phủ trình tăng lương theo hệ số cơ bản từ 1triệu 490 ngàn đồng lên 1triệu 800 ngàn đồng từ 1.7.2023 thì Quốc hội cần thiết phải họp bàn và biểu quyết thống nhất chủ trương này trong bối cảnh giá cả tăng thì điều đó đã mang lại quyền lợi trực tiếp cho cán bộ và nhân dân…

Việc họ phê phán ý kiến của các đại biểu Quốc hội phát biểu là “không chất lượng” làm cho nhiều cử tri thấy “hoang mang” là giọng điệu không hề mới. Luận điệu này họ đã lặp đi lặp lại nhiều lần. Từ thực tế mà nói, các đại biểu Quốc hội các khóa gần đây phát biểu tại hội trường cũng như tại thảo luận tổ so với trước đây đã có bước tiến dài. Đại biểu Quốc hội đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng vấn đề mà mình phát biểu, nhất là tại các phiên chất vấn các vị Bộ trưởng và Lãnh đạo Chính phủ đại biểu nêu thẳng vào vấn đề và không còn tình trạng nêu câu hỏi hay tranh luận mà diễn giải nội dung một cách lòng vòng. Sau mỗi kỳ chất vấn hoặc mỗi kỳ họp khi phỏng vấn cử tri đều bày tỏ chứng kiến của mình nhận xét, đánh giá khách quan về phát biểu của các đại biểu Quốc hội.

 

NVH40 - NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA QUÂN NHÂN KHI THAM GIA VAY NỢ “TÍN DỤNG ĐEN”

 

Hoạt động “tín dụng đen” đã và đang trở thành vấn nạn của xã hội nói chung và trong các đơn vị Quân đội nói riêng. Do nhu cầu cấp bách về tài chính không ít quân nhân đã đi vay của các tổ chức “tín dụng đen” với lãi suất rất cao, do tiềm lực tài chính hạn chế, nhiều quân nhân không thể thanh toán đúng hạn các khoản vay, dẫn đến tình trạng lãi mẹ đẻ lãi con nợ nần chồng chất vượt quá khả năng chi trả, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân thấp, ảnh hưởng đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ chung của đơn vị.

Do đó, để ngăn ngừa, hạn chế hậu quả của hoạt động “tín dụng đen” mỗi quân nhân cần nắm chắc các hình thức, thủ đoạn hoạt động của các tổ chức “tín dụng đen” từ đó cân nhắc hành vi của mình. Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường phòng ngừa, hạn chế quân nhân tham gia vay nợ liên quan đến “tín dụng đen” là nhiệm vụ thường xuyên cấp bách của các tổ chức Đảng và người chỉ huy các cấp, nhằm giữ vững sự ổn định của đơn vị. Do vậy, đội ngũ các bộ các cấp cần bán sát đơn vị, chủ động theo dõi nắm bắt các quân nhân có các dấu hiệu tham gia vay nặng lãi để có phương án giải quyết.

​Đối với cá nhân tham gia vay nặng lãi - “tín dụng đen” trong quá trình công tác, học tập và rèn luyện tại cơ quan, đơn vị, thường có các biểu hiện khác lạ, bất thường, điển hình như:

​- Thứ nhất, Tư tưởng thiếu tập trung, chểnh mảng, sắc thái của bản thân không ổn định, lơ đễnh, căng thẳng, có thể vi phạm vào nền nếp sinh hoạt, chế độ giờ giấc, đi lại, có biểu hiện bất minh về thời gian.

​- Thứ hai, Có thể trạng bất thường như: sức khỏe sa sút, tác phong luộm thuộm, chậm chạp, hay tụ tập bè nhóm riêng hoặc sống thu mình; chất lượng học tập, công tác giảm sút...

​- Thứ ba, Có lối sống sinh hoạt bất thường, có thời điểm phóng khoáng về tiền bạc, ăn uống sa hoa, sử dụng đồ dùng cá nhân có giá trị về kinh tế cao, có thời điểm thì ngược lại.

​- Thứ tư, Mối quan hệ của bản thân với bạn bè hoặc các thành viên trong gia đình có biểu hiện bất thường: dễ xảy ra xung đột, cãi vã, mất đoàn kết...

​Khi phát hiện có một hoặc các dấu hiệu bất thường trên, lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cơ quan, đơn vị phải kịp thời tìm hiểu và có các biện pháp nắm chắc tình hình diễn biến tư tưởng của cá nhân và hoàn cảnh gia đình, sớm phát hiện các trường hợp có biểu hiện tham gia “tín dụng đen”; tránh thờ ơ, vô trách nhiệm hoặc không chỉ đạo cơ quan, ngành chức năng xác minh, tìm hiểu, làm rõ để có biện pháp giải quyết phù hợp theo phương châm: “Phát hiện sớm, giải quyết dứt điểm, không để lún sâu, lành mạnh cuộc sống”. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ các cấp cần thường xuyên quan tâm đến tâm tư, đời sống vật chất, tinh thần và hậu phương của cán bộ, chiến sĩ; kịp thời động viên, giúp đỡ những trường hợp khó khăn để họ yên tâm công tác, ổn định cuộc sống.

 

NVH40 - KHI VIỆT TÂN DẠY THỦ TƯỚNG LÀM NGOẠI GIAO!

 

Có lẽ bên nửa bán cấu tây một đám người Việt chưa đầy mấy chục ngàn người chuyên bỉ bôi dân tộc, có đến mấy chục thủ tướng, tổng thống đệ nhất đệ tam rồi họ nghĩ họ tài, họ giỏi nên họ ra mặt dạy Chính phủ, thủ tướng Chính phủ Việt Nam phải thế này, thế nọ???

Thật nực cười. "Một lối ngoại giao thiếu tế nhị" - là tiêu đề bài viết của Việt Tân chiều nay (16/11/2022). Trang này cho rằng việc Thủ tướng Phạm Minh Chính tặng câu thư pháp chữ Nho cho Thủ tướng Đức là thiếu tế nhị, vì ông ta không biết chữ Nho.

Nếu tặng chữ Nho là thiếu tế nhị, thì để được coi là tế nhị, chắc anh Chính phải dịch câu "hoà bình, hữu nghị cùng phát triển" sang tiếng Đức rồi vẽ loằng ngoằng ra dạng thư pháp hay không? Tương tự như vậy, khi đặt chân đến Việt Nam, ông Thủ tướng Đức phải được tiếp đãi bằng dăm bông, xúc xích hay bánh mỳ Pháp, vì đơn giản, ông ta không biết ăn phở hay bún chả.

Thử hỏi, nếu đặt vào địa vị của Thủ tướng Đức, liệu ông ta có vui vẻ khi được tiếp đón như vậy không. Tôi chắc chắn là không! Đơn giản vì mỗi dân tộc có nền văn hoá riêng, bản sắc riêng, không thể vì một nguyên thủ này hay một nguyên thủ nước khác, dù đó là cường quốc mà thay đổi hay phủ nhận văn hoá dân tộc mình.

Chữ Nho là một phần lịch sử của dân tộc và chẳng thể nào thay đổi điều đó.

Nhìn nụ cười vui vẻ của ngài Thủ tướng Đức, tôi biết ông ấy rất vui vẻ với món quà. Chỉ có mấy anh Việt Tân mất gốc, thiếu cội nguồn mới thấy những chữ kia là thiếu tế nhị mà thôi.

 

 

 

 

NVE40-XUYÊN TẠC TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM “CHIÊU BÀI QUEN THUỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH”

 

Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thị trường một số mặt đã và đang tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước, đời sống đa phần nhân dân được cải thiện, trong đó có các tín đồ tôn giáo; bên cạnh đó cũng tạo môi trường khách quan, thuận lợi cho sự phát triển tín ngưỡng tôn giáo và tàng trữ trong lòng nó những yếu tố tiêu cực. Cùng với những vấn đề “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, vấn đề tôn giáo hiện nay đang là một vấn đề nhạy cảm và có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch đang lợi dụng sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, sử dụng vấn đề “tôn giáo” để tác động, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, phục vụ các ý đồ chính trị phản động của chúng. Tình trạng lợi dụng tôn giáo để chống phá, vu khống đường lối lãnh đạo của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc đang có xu hướng tăng lên. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp về tôn giáo và công tác tôn giáo, đồng thời vận dụng linh hoạt, sáng tạo để giải quyết vấn đề tôn giáo hiện nay.

Đối với các thế lực thù địch, tôn giáo là cái “cớ” để khai thác, nhằm xuyên tạc để chống phá Đảng, chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại đoàn kết tôn giáo, gây chia rẽ, kích động hận thù hoặc tạo tâm lý hoang mang, lo lắng, gây tư tưởng chia rẽ, bạo loạn,... Một sự việc rất nhỏ, một mâu thuẫn bình thường trong lĩnh vực tôn giáo có thể bị thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc trở nên nghiêm trọng; một vụ việc tôn giáo xảy ra tại một khu vực, một địa phương cũng rất dễ bị khuếch đại thành vấn đề quốc tế; một sự kiện vốn chỉ là hiện tượng, nhưng có thể bị xuyên tạc trở thành bản chất; một vấn đề mang tính bộ phận, nhưng lại dễ biến thành toàn thể; một câu chuyện vốn rất bình thường, nhưng có thể bị biến thành phức tạp.

Trong nhiều năm qua, những nhận định sai trái, xuyên tạc với thái độ thù địch và động cơ chính trị xấu vẫn thường xuyên xuất hiện, cho dù tình hình tôn giáo ở Việt Nam tốt đẹp, quyền tự do tôn giáo ngày càng được bảo đảm tốt hơn thì những luận điệu kiểu ấy vẫn phát tán và hoàn toàn không ăn nhập gì với thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Kỳ thực, các quan điểm sai trái, thù địch, kích động mâu thuẫn, xung đột,... đều đã được lập trình với rất nhiều phương án, kịch bản khác nhau để hướng đến mục đích cuối cùng là thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, là gây “cách mạng không tiếng súng”, nhằm công kích, chuyển hóa chế độ. Chiến thuật, chiến lược này không mới, nhưng nó nguy hiểm ở chỗ luôn âm thầm, rình rập, chờ thời cơ, kiểu “nước nhỏ lu đầy”, “mưa dầm thấm lâu”,...Các thế lực thù địch rêu rao rằng, Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo, hạn chế, cản trở, đàn áp hoạt động tôn giáo. Quan điểm này thường viện dẫn rằng có những hoạt động tôn giáo bị chính quyền ngăn cản hoặc giải tán. Tuy nhiên, trong thực tế những hoạt động tôn giáo bị chính quyền giải tán là những hoạt động chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền, nói cách khác, đây là hoạt động trái pháp luật. Theo pháp luật Việt Nam, việc tuyên truyền tôn giáo, tổ chức các hoạt động tôn giáo đông người ngoài cơ sở thờ tự và những địa điểm hợp pháp khác, mà chưa được sự đồng ý của chính quyền là một hành vi vi phạm pháp luật. Khi thấy các cơ quan quản lý nhà nước ngăn chặn những hoạt động này, các thế lực thù địch lu loa rằng, đó là hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạn chế tôn giáo mà quên rằng, các cơ quan đang thực thi pháp luật Việt Nam chứ không phải thực thi pháp luật của một đất nước nào khác.

        Quan điểm của các thế lực thù địch, như vừa trình bày ở trên, rõ ràng là sự xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam một cách trắng trợn nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị. Điều mà các thế lực thù địch mong muốn đạt được khi xuyên tạc, vu cáo tình hình tôn giáo ở Việt Nam đó là, làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam trở lên phức tạp, kích động, thúc đẩy những mâu thuẫn trong các tôn giáo, giữa các tôn giáo với nhau; kích động những nhân vật tôn giáo bất mãn, cực đoan lôi kéo những người khác gây mâu thuẫn, xung đột, chống đối, biểu tình … gây ra những phức tạp về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang cho người dân, tạo ra những điểm nóng về tôn giáo, về trật tự xã hội… để từ đó có cớ can thiệp, thổi phồng, quốc tế hóa…

            Ngày nay, công cuộc phát triển kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải vận dụng và phát triển một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến, những vấn đề có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo; Đảng và Nhà nước ta thể hiện quan điểm trước sau như một: tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là sự lựa chọn tự do của con người, bởi vì tôn giáo là niềm tin và tồn tại như một nhu cầu tinh thần của quần chúng. Thái độ của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề tự do tôn giáo luôn luôn rõ ràng và phân minh. Một mặt Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác lại nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục. Hiên nay Quân đội ta cùng với toàn Đảng, toàn dân tham gia phát triển  kinh tế- xã hội, tuyên truyền chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đấu tranh chống thù địch, chia rẽ các tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, trong nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân phải tiếp tục thực hiện phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đó là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống, thực sự là đội quân công tác phòng chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hoà bình” đang lợi dụng vấn đề tôn giáo  để phá hoại đất nước ta.

NVE40 -ĐỪNG ĐỂ “TIN ĐỒN” BỐC HƠI TIỀN GỬI CỦA BẠN

 

Từ khi hoạt động tài chính chính thức được triển khai rộng rãi, tại địa bàn cấp xã của Việt Nam, đều có qũy tín dụng nhân dân hoặc chi nhánh ngân hàng thương mại, người dân đã hình thành nên tập quán gửi tiền tiết kiệm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ngân hàng chính thức này.

Từ khi hoạt động tài chính chính thức được triển khai rộng rãi, tại địa bàn cấp xã của Việt Nam, đều có qũy tín dụng nhân dân hoặc chi nhánh ngân hàng thương mại, người dân đã hình thành nên tập quán gửi tiền tiết kiệm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ngân hàng chính thức này. Đây là phương thức đầu tư tiền tiết kiệm phổ biến và mang lại lợi ích đáng kể cho công chúng và ngân hàng. Mặc dù vậy, tại nhiều quốc gia và Việt Nam, với nguyên nhân khác nhau, đã từng xảy ra hiện tượng “đột biến rút tiền gửi”.

Xét trên khía cạnh nguyên nhân đột biến rút tiền từ phía ngân hàng, có thể hiểu “đột biến rút tiền gửi ngân hàng” là hiện tượng người gửi tiền ồ ạt rút tiền tại ngân hàng do họ sợ rằng ngân hàng mà mình gửi tiền có thể bị đổ vỡ và tiền gửi của họ có thể bị thiệt hại. Với tiến trình phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngân hàng trên toàn cầu, sự đóng góp lớn lao của kinh doanh ngân hàng cho thịnh vượng của các ngành và nền kinh tế, đồng thời sự “ra đi” của không ít ngân hàng đã gây nên nhiều hệ lụy cho nhiều đối tác, thôi thúc chúng ta tìm hiểu về hiện tượng đột biến rút tiền gửi và mối nguy hại khôn lường của nó nếu không được kiểm soát.  

Lịch sử ngân hàng thế giới đã cho thấy hậu quả nghiêm trọng của nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng và trầm trọng hơn bởi đột biến rút tiền gửi lan tràn, gây ảnh hưởng lớn tới hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Ở Mỹ, giai đoạn 1929-1933 và nhiều năm sau đó, đột biến rút tiền gửi và đổ vỡ ngân hàng đã gây dấu ấn bởi hậu quả nghiêm trọng của nó.

Ngày nay, với sự có mặt của thể chế bảo vệ người gửi tiền, công cụ chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG), hiện tượng đột biến rút tiền gửi có xu hướng xảy ra lặng lẽ hơn nhưng vẫn là loại rủi ro hiện hữu và có ảnh hưởng lớn. Có thể liệt kê nhiều ngân hàng có quy mô hoạt động lớn đã đóng cửa có hiện diện của đột biến rút tiền gửi, như: Ngân hàng quốc gia Franklin (FNB) ở Mỹ bị đổ vỡ năm 1974; phá sản Ngân hàng Banco Ambrosiano của Ý năm 1982; sự đổ vỡ dây chuyền của nhiều ngân hàng ở Canada những năm 1985; Ngân hàng New England với 1 tỷ USD tiền gửi bị đột biến rút khỏi đã làm ngân hàng này sụp đổ (1982-1984); hàng loạt qũy tiết kiệm và cho vay tại bang Maryland và Ohio ở Mỹ đã bị rút tiền ồ ạt trong những năm 1980. Trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á năm 1997, tại nhiều quốc gia, như Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia, tình trạng đột biến rút tiền gửi đã hiện hữu và để lại ảnh hưởng không nhỏ.

Trong giai đoạn này, đỉnh điểm của khủng hoảng lòng tin đã dẫn đến đột biến rút tiền gửi tại 2/3 số ngân hàng tư nhân ở Indonesia, chiếm 1/2 tổng số ngân hàng ở quốc gia này. Trong các ngày 9-12/11/2006, ngân hàng trách nhiệm hữu hạn Nepal đã đối mặt với đột biến rút tiền gửi trầm trọng, 3 tỷ rupi tiền gửi đã bị rút khỏi ngân hàng trong 3 ngày… Sự kiện diễn ra ở Anh và Mỹ từ cuối năm 2007 tới nay cho thấy nhiều ngân hàng lớn đã trải nghiệm đột biến rút tiền gửi và gánh chịu hậu quả nặng nề. Ngày 14-17/9/2007, đột biến rút tiền gửi diễn ra tại ngân hàng Northern Rock (NR), ngân hàng cho vay tín chấp lớn thứ 5 tại Anh, không những để lại chi phí lớn cho cổ đông của ngân hàng này mà còn làm giảm giá cổ phiếu của nhiều ngân hàng khác.

Nhận định của các nhà quan sát đánh giá hệ thống chi nhánh của ngân hàng này đã rơi vào tình trạng khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử: cảnh hỗn loạn xẩy ra tại 72 chi nhánh, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền, hàng chục chi nhánh phải làm việc đến tận khuya. Chỉ trong vòng 4 ngày, tổng số tiền bị rút khỏi ngân hàng này vào khoảng 4 tỷ USD. Sau khi NR được ngân hàng Trung ương Anh bơm tiền và các biện pháp trấn an người gửi tiền được thực hiện, tình thế vẫn rất nguy kịch, cuối cùng Chính phủ Anh đã phải đứng ra bảo lãnh cho tiền gửi. Chi phí cho giải pháp cứu nguy NR ước tính khoảng 40-50 triệu bảng Anh, chiếm khoảng 10% lợi nhuận mục tiêu năm 2007 của NR.

Trong diễn biến của sự kiện Anh quyết định rời khỏi EU, đột biến rút tiền gửi tái hiện ở Anh với nguyên nhân lo ngại đồng tiền Anh mất giá, người dân đổ xô rút tiền để đổi sang ngoại tệ khác. Trước bối cảnh đó, quốc gia lân cận với Anh đã có kế hoạch kiểm soát ảnh hưởng của đột biến rút tiền có thể xẩy ra. Thủ tướng Italia Matteo Renzi cam kết sẵn sàng đưa ra gói cứu trợ trị giá 40 tỉ EUR (tương đương 44,46 tỷ USD) cho thị trường ngân hàng nước này trong nỗ lực bình ổn tình hình và trấn an người dân, tránh đột biến rút tiền gửi.

Làm gì để kiểm soát đột biến rút tiền

Thứ nhất, cho dù nguyên nhân nào đi chăng nữa, đột biến rút tiền gửi để lại hậu quả lớn cho nhiều đối tác, đối tượng chịu chi phí đầu tiên, nhìn toàn bộ, là người gửi tiền. Để giảm khả năng này, suy xét và ứng xử thận trọng trước thông tin thất thiệt về ngân hàng mình gửi tiền sẽ giúp họ giảm được chi phí không đáng mất, giúp ngân hàng khắc phục được khó khăn (nếu có), tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng triển khai thuận lợi các thể chế bảo vệ người gửi tiền, thúc đẩy hoạt động ngân hàng an toàn và hiệu quả.

Thứ hai, đột biến rút tiền gửi mặc dù không phải là nguyên nhân chủ yếu và duy nhất dẫn tới đổ vỡ ngân hàng nhưng là yếu tố cộng hưởng, trở nên phức tạp và có ảnh hưởng nghiêm trọng trong tình huống xảy ra ở nhiều ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần có những bước chuẩn bị thích hợp để chủ động phòng tránh và kiểm soát tình huống đột biến rút tiền gửi. Nỗ lực hoạt động an toàn và hiệu quả, minh bạch thông tin, có giải pháp thích hợp kiểm soát thông tin, tổ chức tư vấn thông tin bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và phối hợp triển khai chính sách BHTG một cách đầy đủ là các hoạt động được khuyến nghị triển khai nhằm hạn chế khả năng phát sinh đột biến rút tiền gửi.

Thứ ba, tình trạng ngân hàng hoạt động yếu kém dưới mức chấp nhận của thị trường dẫn tới mất khả năng thanh toán, rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng là giải pháp được áp dụng để nhường chỗ cho sự ra đời ngân hàng mới, kinh doanh hiệu quả, phục vụ cho sự phát triển của các đối tác và nền kinh tế được thịnh vượng. Để tình huống này diễn ra có trật tự, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, các chủ nợ có liên quan và không ảnh hưởng tới các ngân hàng đang hoạt động bình thường, các thiết chế liên quan bao gồm giải quyết ngân hàng có vấn đề, cần được xây dựng đồng bộ, cần thể hiện vai trò, trách nhiệm của tổ chức triển khai chính sách BHTG.

Thứ tư, đột biến rút tiền gửi cùng với sự đổ vỡ ngân hàng hàng loạt là nguyên nhân thôi thúc triển khai, cải tiến và chuẩn hóa chính sách BHTG ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với mô hình chính sách BHTG hướng tới xử lý ngân hàng có vấn đề, có chức năng giám sát hoạt động ngân hàng, thông qua đó thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đã có tác dụng tích cực trong việc kiểm soát và hạn chế hiện tượng đột biến rút tiền gửi và đổ vỡ ngân hàng. Điều này được thể hiện qua thành công trong triển khai chính sách BHTG ở Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... Ngược lại, nếu đơn thuần triển khai chính sách BHTG theo mô hình tổ chức chi trả tiền bảo hiểm, việc kiểm soát đột biến rút tiền gửi và giải quyết ngân hàng có vấn đề sẽ phức tạp, tốn kém và không hiệu quả.

Thứ năm, công cụ hỗ trợ tài chính cần được nghiên cứu để triển khai chính thức trong khuôn khổ chính sách BHTG ở Việt Nam. Kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản và Ba Lan về hỗ trợ tài chính cần được tham khảo và vận dụng linh hoạt. Quy định kiểm soát rủi ro trong thực thi hỗ trợ tài chính, như trích lập dự phòng xử lý nợ xấu, quy định miễn trừ trách nhiệm công vụ trong tình huống đặc biệt v.v. cần được thể chế hóa.

Có thể khẳng định đột biến rút tiền gửi ngân hàng là vấn đề nhạy cảm và khó khăn, có thể xảy ra ngay từ khi hoạt động ngân hàng còn sơ khai và có khả năng tái diễn trong quá trình phát triển hoạt động ngân hàng ở mức độ cao hơn. Đột biến rút tiền gửi thôi thúc sự ra đời, cải tiến và chuẩn hóa BHTG. Cùng với chính sách BHTG công khai được triển khai hiệu quả, thể chế thiết lập và duy trì tính tự giác chấp hành kỷ cương thị trường cần được triển khai đồng bộ, để kiểm soát và vô hiệu hóa cơ hội phát sinh rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, trong đó có rủi ro gây nên đột biến rút tiền gửi.

Vì vậy việc nhận thức trước các vấn đề trên mang tính chất xuyên suốt mỗi người dân cần có nhận thức đúng đắn và tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đang và sẽ bảo đảm tốt các quyền cho mọi người đân tránh tình trạng ồ ạt rút tiền làm ảnh hưởng tới an ninh chính trị và ảnh hưởng sự phân bố tiền tệ./.

 

NVD40 - Cảnh giác với những luận điệu lợi dụng thị trường xăng đầu để xuyên tạc, chống phá

 

            Trong thời gian qua việc người dân xếp hàng dài tại các cây xăng dầu để có thể mua xăng phục vụ cho việc đi lại, cũng có nhưng cây xăng báo hết xăng liên tục phần nào đã ảnh hưởng tới nhu cầu đi lại của người dân. Song với góc nhìn phiến diện, không hiểu rõ nguyên nhân mà một số đối tượng thù địch lại lợi dụng tình trạng này để đưa ra những luận điệu chống phá. Cụ thể chúng cho rằng: “Hiện tại gần như không ghi nhận có quốc gia nào lâm vào tình trạng xăng dầu như Việt Nam, vì xăng dầu không hề thiếu, như vậy xem ra Việt Nam đang không tuân theo quy luật thị trường do phải chịu sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi nếu giá xăng dầu không được tính đúng, tính đủ thì việc “đứt gãy” rất khó được xử lý, kể cả với doanh nghiệp sản xuất xăng dầu trong nước và thị trường gặp trục trặc ngay.”

               Việc dẫn tới nguyên nhân thiếu xăng là do giá nhập khẩu xăng trên thị trường quốc tế tăng cao, việc duy trì điều chỉnh giá xăng dầu của Nhà nước để với mục đích ổn định giá xăng dầu, không có hiện tượng đầu cơ, chuộc lợi. Chính sách này đã có tác dụng rất lớn ở các doanh nghiệp nhập khẩu lớn. Song do một số cá nhân bán lẻ vì lợi ích nhỏ, cạnh tranh với nhau mà tạo ra những hiện tượng hết xăng trên. Trước tính hình trên, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu đích danh Bộ trưởng Bộ Công thương phải giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ, đảm bảo minh bạch, hiệu quả. Bộ Công thương thiết lập lại thị trường xăng dầu là đảm bảo tính cạnh tranh; quyền lực quản lý của nhà nước và cơ chế điều hành. Về lâu dài, đã đến lúc VN cần đặt ra vấn đề dự trữ chiến lược, dự trữ quốc gia. Đây không chỉ là một công cụ can thiệp của cung - cầu, can thiệp về giá cực kỳ quan trọng mà còn góp phần ngăn chặn đứt gãy nguồn cung xăng dầu. Tin tưởng với những điều chỉnh và quan tâm như vậy, thì hiện tượng thiếu xăng dầu sẽ không còn nữa.

          Mục tiêu xây dựng Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đều quan tâm chăm lo lợi ích của Nhân dân. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội của nước ta đang gặt hái nhiều thành tựu to lớn, không riêng gì xăng dầu, tất cả các mặt hàng trên thị trường đều được Nhà nước điều chỉnh một cách ổn định không để khan hiếm, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Do vậy việc nhìn nhận phiện diện, thiếu chính xác, luận điệu trên hoàn toàn sai trái, cần phải cảnh giác, đấu tranh.

NVC40 - Kiên quyết loại bỏ lối sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên

 

            Ở nước ta hiện nay, bên cạnh lối sống vì con người, vì cộng đồng xã hội được ví như những đóa hoa tỏa ngát hương thơm làm đẹp cho đời thì vẫn còn một bộ phận người có lối sống tiêu cực, gây hại cho cách mạng và xã hội, đó là lối sống thực dụng. Một trong những biểu hiện dễ thấy là sống vị kỷ, xem lợi ích của mình là tối thượng. Những người này thường “vui trước thiên hạ, lo sau thiên hạ”, tìm mọi cách thu vén, thậm chí tranh đoạt lợi ích cho riêng mình, bất chấp việc đó có ảnh hưởng đến người khác và tập thể hay không.

          Điều này đã được Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cảnh báo có một bộ phận cán bộ, đảng viên mang biểu hiện: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể”.

          Lối sống thực dụng bắt đầu hình thành từ trong tư tưởng, nhận thức. Đến một giai đoạn nhất định, nó thể hiện thông qua hành động của chủ thể. Khi bị tác động bởi lối sống thực dụng, nếu không có sự trui rèn đạo đức, lối sống, bắt đầu xuất hiện tư tưởng đắn đo giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa cống hiến và hưởng thụ, từng bước tạo ra sự chuyển hóa từ bên trong, khiến không còn là chính họ của ngày hôm qua.

          Cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng thường tham vọng rất lớn, hám công danh, địa vị. Họ tìm mọi cách để đạt được mục tiêu chính trị, leo lên vị trí chức vụ cao, sẵn sàng “chạy” dưới mọi hình thức để dễ bề kiếm chác. Trong công việc, ngoài mặt thì họ tỏ ra tích cực, trách nhiệm, nhưng đằng sau đó, họ lại làm cho xong việc, làm cho có, cốt “đánh trống ghi tên”. Khi gặp khó khăn, người có lối sống thực dụng thường dễ thoái chí, bàn lui, không dám làm, tìm cách đùn đẩy; khi có thành tích thì tranh công, khi có khuyết điểm thì tìm cách đổ lỗi, không dám nhận trách nhiệm về mình. Thậm chí, người có chức vụ, quyền hạn đã dung dưỡng, bao che cho sai trái, tiêu cực, từ đó tạo ra những nhóm lợi ích để trục lợi.

          Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao”. Yếu tố tác động, gây ra tính chất nguy hiểm trên đều có sự “góp mặt” của lối sống thực dụng đã và đang hiện hữu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đã viết: “Nhân dân ta thường nói: Đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ ta”, chứa đựng tình cảm, sự tin tưởng của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và thể hiện trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Muốn hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình và góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, cán bộ, đảng viên phải thật sự gương mẫu về mọi mặt, nhất là về đạo đức, lối sống.

          Điều quan trọng nhất là cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp nói phải đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Đây là hành động cơ bản thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng ta hiện nay, có không ít cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, nói và làm có những khoảng cách, thậm chí trái ngược nhau. Không ít quan chức tự cho mình cái quyền được nói “làm những điều tôi nói, không được nói điều tôi làm”, thậm chí có người rất hay "lên mặt" rao giảng, dạy dỗ người khác bằng những từ đại ngôn, hoa mỹ, nhưng hành động, việc làm lại trái những nguyên tắc của Đảng, thậm chí còn làm ô danh Đảng. Người cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, chỉ huy muốn thu phục quần chúng, muốn quần chúng tin theo phải thực sự mẫu mực về phương pháp, tác phong làm việc, lời nói gắn liền với việc làm, hành động cụ thể, mang lại ích nước, lợi dân.

          Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng cao đẹp ấy, các thế hệ cha ông ta đã không tiếc xương máu hy sinh để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, tạo cơ sở, tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta được sống trong hòa bình, có cơ hội phát triển toàn diện, những thành tựu to lớn của đất nước hôm nay đã được viết bằng máu và nước mắt của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, của lớp lớp cán bộ, đảng viên kiên trung với lối sống cao đẹp, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy, rèn luyện và nâng cao đạo đức cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, làm mọi việc để góp phần cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc là lương tâm, bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của thế hệ cán bộ, đảng viên hôm nay./.

 

NVB40 - Cảnh giác trước thủ đoạn lợi dụng tôn giáo kích động gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

 

Cùng với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta. Mục đích của việc lợi dụng vấn đề này là để kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thời gian qua, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để công kích, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước. Chúng đưa ra luận điệu “Việt Nam đàn áp tôn giáo”, “vi phạm quyền tự do tôn giáo” của người dân; yêu cầu các tôn giáo phải được hoạt động tự do, không cần đặt dưới sự quản lý của Nhà nước… Chúng vu cáo rằng: “CNXH không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo”; “Pháp luật Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng chỉ là hình thức, thực chất là cơ sở để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn giáo, thậm chí có hành động đàn áp các tín đồ tôn giáo”… Chúng còn lập nhiều tài khoản trên các trang mạng xã hội như: Youtube, Facebook, Blog… để phát tán, đăng tải các bài viết, video, hình ảnh đả kích, nói xấu chế độ, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; thậm chí lợi dụng đức tin và sự gắn kết cộng đồng của tôn giáo để lôi kéo, tập hợp lực lượng, truyền đạo trái phép, tổ chức biểu tình, thách thức, chống phá chính quyền, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tất cả nhằm mục đích thêu dệt nên một bức tranh màu xám, méo mó về vấn đề tôn giáo tại Việt Nam, từ đó kêu gọi quốc tế “gây sức ép”, “can thiệp” vào nước ta.

Lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tôn giáo, một số phần tử cực đoan trong tôn giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức soạn thảo và tán phát các tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. Đáng chú ý, với lý do “bảo vệ tự do tôn giáo”, một số thế lực nước ngoài đã “lên án” tình hình bảo đảm quyền con người của Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực tôn giáo.

Lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, các tôn giáo đều gia tăng các hoạt động mở rộng cơ sở vật chất, dẫn đến phát sinh nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện đất đai liên quan đến tôn giáo. Đáng chú ý, số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo đã triệt để lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo để kích động các hoạt động chống đối, gây tâm lý bức xúc và phản ứng của tín đồ đối với chính quyền; gây chia rẽ giữa chính quyền với tôn giáo. Nghiêm trọng hơn, họ còn cố tình chính trị hóa sự việc, xuyên tạc, vu cáo chính quyền “lấy đất đai của tôn giáo, bỏ quên quyền lợi nhân dân, bao che cho doanh nghiệp, tàn phá môi trường”, kích động tâm lý so bì, cho rằng Nhà nước đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo.

Sự thật không phải vậy. Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo, hơn 58.000 chức sắc, 148.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự, 53 cơ sở đào tạo tôn giáo và 16 tôn giáo. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Do đó, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động này có vai trò quan trọng trong toàn bộ công tác tôn giáo cũng như bảo đảm sự ổn định chính trị – xã hội ở Việt Nam.

Với chủ trương “tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thời gian qua, tình hình tôn giáo ổn định, đời sống tôn giáo có những biến đổi sâu sắc cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo đảm. Các tổ chức tôn giáo được công nhận và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Cần khẳng định rằng, bản chất của Tôn giáo chân chính là luôn hướng con người đến chân – thiện – mỹ, tức là đến những giá trị tốt đẹp nhất của con người; không bao giờ răn dạy các tín đồ của mình phải làm điều ác, trái với đạo đức, luân thường, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Các đức tin của các Tôn giáo đều có chung khát vọng dẫn đường cho con người tu tập, thực hành giáo lý, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, xã hội phồn vinh, hướng con người đến với sự tốt đẹp, sống đoàn kết, lương thiện và thương yêu nhau. Ngay trong Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng nhấn mạnh: “Mục đích của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là điều hòa, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương phật pháp và tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hòa bình, an lạc cho thế giới”.

Mỗi tín đồ tôn giáo cũng đồng thời là công dân Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần phải thực hiện nghĩa vụ công dân trên cơ sở pháp luật, không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy, mỗi chức sắc, tín đồ và người dân hãy đề cao cảnh giác, kịp thời tố giác, ngăn chặn hành vi của các đối tượng lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật; đó cũng là phương cách để bảo vệ chính mình, bảo vệ xã hội và chính là bảo vệ các tôn giáo chân chính đang hoạt động bình thường trên đất nước Việt Nam.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NVH39 - Không thể xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam

 

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam và được thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật, vì đây là một trong những quyền cơ bản của mọi người, được Hiến pháp năm 1946 đến Hiên pháp năm 2013 khẳng định trên nguyên tắc hiến định.

Tuy nhiên, thế lực thù địch và một số tổ chức thiếu thiện chí chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, chúng tìm mọi cách chống phá, tuyên truyền những luận điêu sai trái cho rằng, Việt Nam không có tự do tôn giáo, xuyên tạc trắng trợn về tình hình, đời sống tôn giáo ở nước ta, nói mãi điều phi thực tế nhằm tạo sự hoài ghi, nhằm phá hoại khối đoàn kết tôn giáo.

Họ sử dụng thông tin tài liệu cũ từ các nhóm, phái tôn giáo chưa được nhà nước công nhận, số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định kiến với Đảng, Nhà nước để tiếp nhận thông tin không chính xác đưa vào báo cáo đánh giá; khuyến khích cổ vũ cho các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Giáo hội và xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, với âm mưu muốn giáo dân chống đối chính quyền, họ kích động với luận điệu, đây là quyền con người “quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo”; đồng thời lợi dụng mạng xã hội, Feebok, Blog… hội luận xuyên tạc Luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, là “bước thụt lùi”; “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người”…

Phải khẳng định ngay rằng, những thông tin, luận điệu sai lệch, xuyên tạc nêu trên là hết sức phi lý, với ý đồ mục đích xấu xa, nhằm tác động đến suy nghĩ, tình cảm của chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, nhằm tạo sự hoài nghi về chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.

Dù các thế lực thù địch có cố tình, xuyên tạc chống phá thế nào chăng nữa cũng không thể chia rẽ chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo tin tưởng vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được chính quyền quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi,chức sắc, tín đồ và nhân dân được tự do hành lễ ở nhà riêng, hay cơ sở thờ tự…thực tiễn đời sống tôn giáo đã chứng minh, khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, khẳng định chính sách nhất quán, củng cố nềm tin tưởng  của chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

 

 

NVH39 - CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU LỢI DUNG TĂNG GIÁ XĂNG DẦU ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

Nhìn dòng người xếp hàng tại các cây xăng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh những ngày qua, người ta liên tưởng tới những hình ảnh của thời kỳ bao cấp ở thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ trước. Người tiêu dùng chỉ biết than ngắn, thở dài, theo đó là những bức xúc, bực dọc của cả người mua lẫn người bán cũng là điều dễ hiểu. Trong khi đó, nguồn cung các loại nhiên liệu và khí đốt của Việt Nam vẫn phụ thuộc ít nhiều vào nguồn nhập khẩu. Mà nền kinh tế đã vận hành theo cơ chế thị trường thì chẳng có một quốc gia nào lại mua hàng với giá cao, rồi vận chuyển về lại bán dưới giá mua. Như vậy, giá xăng dầu tăng cao hay thấp, nhanh hay chậm không phải dựa vào ý chí của người tiêu dùng, mà do thị trường quyết định.

Giá xăng dầu tăng thời gian qua không chỉ là vấn đề riêng của Việt Nam mà là vấn đề chung của nhiều nước trên thế giới trong điều kiện nền kinh tế đang hồi phục sau đại dịch Covid-19. Nguyên nhân chủ yếu đến từ hệ quả của diễn biến phức tạp xoay quanh xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine (Nga là nước xuất khẩu dầu mỏ thứ 2 thế giới, chiếm khoảng 12% nguồn cung toàn cầu). Việc xung đột và các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Nga đã khiến nguồn cung dầu mỏ bị cắt giảm, các nước có xu hướng tích trữ dầu mỏ phòng ngừa rủi ro khiến giá xăng dầu leo thang và tiếp tục vượt đỉnh. Lợi dụng vấn đề này, trên các trang mạng xã hội, blog của các thế lực thù địch, bọn phản động, cơ hội chính trị như: Việt Tân, Chân trời mới Media, RFA VietNam, BBC News Tiếng Việt… với thủ đoạn “bình cũ rượu mới” đăng tải nhiều bài viết với luận điệu xuyên tạc hòng phủ nhận những nỗ lực bình ổn giá của Chính phủ, bôi nhọ, nói xấu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gây hoang mang dư luận, chúng cho rằng đây là sự thất bại của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, rằng xăng tăng giá là hành vi “móc túi dân”, đòi “minh bạch thuế, phí” và “bỏ thuế bảo vệ môi trường, thuế tiêu thụ đặc biệt và quỹ bình ổn giá”. Song có những sự thật không thể thay đổi, đó là nỗ lực của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp để phục hồi nền kinh tế, bình ổn giá xăng dầu. 

Chúng ta đã có khá đầy đủ các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh xăng dầu. Đó là các Luật Thương mại, Luật Giá, Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, các luật về thuế và phí, lệ phí… và nhiều văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Trong thời gian qua, Chính phủ đã có sự chỉ đạo quyết liệt trong việc thanh tra, xử lý nghiêm với những vi phạm của tập thể, cá nhân kinh doanh xăng dầu…. Chính phủ cũng chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan rà soát các quy định về thuế, tính toán lại mức chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức để điều chỉnh giá xăng dầu nhằm đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp, đồng thời đề ra các giải pháp hỗ trợ người có thu nhập thấp, người yếu thế khi giá xăng dầu tăng. Nhờ vào các chính sách đúng đắn và phù hợp, giá xăng dầu ở Việt Nam hiện nay vẫn thấp hơn so với thế giới.

Có thực tế rất đáng trân quý là càng trong khó khăn, gian khó, nhân dân Việt Nam càng có sức mạnh, sự đoàn kết toàn dân tộc và tình yêu thương con người – nguồn lực tinh thần vô giá. Chúng ta tin tưởng tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Chính phủ, cả hệ thống chính trị. Nhất định chúng ta sẽ vượt qua được khó khăn này, xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, hùng cường!

 

NVH39 - CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ PHÁ HOẠI SỰ ỔN ĐỊNH CỦA ĐẤT NƯỚC

 

Thời gian qua, lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động, xâm phạm lợi ích kinh tế, phá hoại sự đoàn kết nhằm gây chia rẽ giữa các dân tộc của một số giáo chức ở một vài địa phương đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thêm phức tạp, gây bức xúc cho người dân.

Điều này được thể hiện đó là: Một số tổ chức và cá nhân luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, chúng nêu các vấn đề như “nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về tôn giáo, dân tộc không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” hay là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân; Thậm chí, chúng còn trắng trợn phê phán, xuyên tạc “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”.v.v

Đây đều là những vấn đề không mới nhưng hết sức nguy hiểm, bởi nếu những ai không hiểu, không nắm vững về quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc, tôn giáo; không nắm được các quy định của luật pháp về hoạt động tôn giáo sẽ dẫn đến sự hiểu sai, nhận thức không đúng, từ đó dễ bị kẻ xấu lợi dụng để tuyên truyền, kích động làm những việc sai trái gây tổn hại cho chính mình và cho xã hội.

Đơn cử về một số thủ đoạn của bọn phản động trong và ngoài nước thường xuyên tạc, bịa đặt, vu khống đó là: Mỗi khi có “đối tượng” vi phạm pháp luật và bị xử lý (bắt, giam giữ, truy tố, tù giam), chúng thường có phản ứng quyết liệt để bênh vực, bảo vệ như: Phản đối, lên án ta đàn áp tôn giáo, yêu cầu ta phải trả tự do cho những người mà họ gọi là “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân lương tâm”.

Để rộng đường dư luận, và để kiểm chứng cho hoạt động tôn giáo ở nhiều nước trên thế giới thế nào, chúng ta có thể lấy một số dẫn chứng, chứng minh vấn đề hoạt động tôn giáo có phải tuân theo pháp luật ở mỗi quốc gia không? Ví dụ như: Luật của Cộng hòa Pháp quy định: “Các nghi lễ, các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu vực nhà thờ và việc kéo chuông phải tuân theo những quy định của chính quyền tỉnh, thành phố”. Luật pháp Cộng hòa Bỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với những giáo sĩ có hành vi và lời nói xúc phạm tới Chính phủ, luật pháp, sắc lệnh của nhà vua cũng như đối với các hoạt động của chính quyền. Ở Đức, các giám mục Thiên chúa giáo khi nhậm chức phải tuyên thệ: “Tôi xin thề và hứa sẽ tôn trọng Chính phủ hợp hiến. Chiểu theo nghĩa vụ phải quan tâm tới lợi ích của Nhà nước Đức trước bất kỳ sự gì khả dĩ tác hại tới lợi ích đó”. Như vậy rõ ràng, bất kỳ tôn giáo nào muốn hoạt động cúng đều phải tuân theo những hướng dẫn, quy định của luât pháp nơi sở tại.

Vậy ở Việt Nam thì sao? Có thể thấy Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, trong đó đều khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”; “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng đa dạng, được Đảng, Nhà nước bảo đảm hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.Từ năm 2003, thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo với khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến năm 2020, đã có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, khoảng 26,5 triệu tín đồ, sinh hoạt tôn giáo ở 29.660 cơ sở thờ tự. Về chức sắc, năm 1990, nước ta có khoảng 38 nghìn chức sắc, nhà tu hành, đến nay tăng lên 61,2 nghìn chức sắc, 147,1 nghìn chức việc (tổng số chức sắc, chức việc khoảng 208,3 nghìn), trong đó tăng nhanh và nhiều nhất là chức sắc Phật giáo và đạo Tin lành.

Với 56 cơ sở đào tạo của các tôn giáo hiện có (gấp 3 lần so với năm 1990), cùng với nhiều hình thức đào tạo đa dạng, linh hoạt, tăng cường các hình thức đào tạo ngắn hạn, cả ở trong nước và ở nước ngoài (đối với các tôn giáo ngoại nhập, có quan hệ quốc tế như Công giáo, đạo Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo) nên hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được đào tạo bài bản, nâng cao trình độ và uy tín, vai trò, ảnh hưởng đối với quần chúng tín đồ, không chỉ trong đời sống tinh thần mà cả trong đời sống xã hội.

Trước các luận điệu phản động trên, mong rằng mỗi người dân chúng ta cần tỉnh táo, không để kẻ xấu lợi dụng để giật dây, làm tay sai không công cho các thế lực thù địch, dẫn đến vi phạm pháp luật. Hãy sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật./.

NVH39 - Chính sách đúng đắn của Chính phủ trong kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm 2022

 

Từ nay đến cuối năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, Chính phủ kiên định mục tiêu ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Chính phủ kiên định mục tiêu ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng.

Tại Nghị quyết 126/NQ-CP, Chính phủ thống nhất đánh giá: Tình hình thế giới dự báo tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường. Lạm phát ở nhiều quốc gia, khu vực tăng mạnh, ở mức cao; việc tăng lãi suất, thu hẹp chính sách tiền tệ, tài khóa dẫn đến tăng trưởng suy giảm, nguy cơ suy thoái gia tăng, tiềm ẩn rủi ro về tài chính, tiền tệ, nợ công. Ở trong nước, với quy mô nền kinh tế khiêm tốn, độ mở lớn, khả năng cạnh tranh và sức chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế; các biến động nhỏ của kinh tế thế giới có thể ảnh hưởng lớn đến tình hình trong nước, nhất là áp lực lạm phát, tỷ giá, chi phí sản xuất gia tăng, nhu cầu các thị trường xuất khẩu truyền thống thu hẹp...

Trong bối cảnh đó, Chính phủ kiên định mục tiêu ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tập trung quán triệt, tổ chức thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhất là Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2022 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình mới.

Đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 2%

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tài khóa và các chính sách khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy tăng trưởng; phối hợp đồng bộ các công cụ, giải pháp về tỉ giá, lãi suất, tăng trưởng tín dụng. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát và thị trường trong, ngoài nước; phối hợp đồng bộ với điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, sẵn sàng bán can thiệp khi cần thiết để ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ; tăng cường công tác thông tin, truyền thông, góp phần tạo đồng thuận xã hội, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng tiếp tục đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động, quản trị, tiết giảm chi phí, nghiên cứu, có giải pháp phấn đấu ổn định hoặc giảm chi phí, lãi suất cho vay.

Rà soát giảm thuế, phí, lệ phí

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả; đẩy mạnh tăng thu, mở rộng cơ sở thu, tăng cường chống thất thu; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, nhất là chi sự nghiệp có tính chất đầu tư, các khoản chi chưa thực sự cần thiết; tiếp tục chỉ đạo, rà soát giảm thuế, phí, lệ phí và có chính sách phù hợp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Cùng các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường quản lý, kiểm soát giá cả, thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống; tăng cường phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi sát, nắm chắc tình hình diễn biến quốc tế, trong nước, tăng cường phân tích, dự báo, chủ động có giải pháp phù hợp và phản ứng chính sách kịp thời trước những biến động tình hình quốc tế, trong nước.

Đẩy mạnh đôn đốc, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia; đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực ngoài nhà nước cho đầu tư phát triển.

Làm tốt công tác quy hoạch; tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; cùng các bộ, cơ quan, địa phương giải quyết hiệu quả các vấn đề phát sinh và các vấn đề tồn đọng.

Đẩy mạnh cơ cấu lại các lĩnh vực

Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu, tình hình thị trường các mặt hàng thiết yếu, nhất là xăng, dầu; có giải pháp không để đứt gãy nguồn cung, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước; đẩy mạnh cơ cấu lại các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, phấn đấu thặng dư thương mại bền vững; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa, mở rộng thị trường quốc tế. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh, giảm phát thải.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương bảo đảm tuyệt đối an ninh lương thực trong mọi tình huống; đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững, thúc đẩy xuất khẩu nông sản, khẳng định, củng cố và phát triển các chuỗi giá trị toàn cầu về trái cây, lương thực, thủy sản...

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương đẩy mạnh phát triển thị trường lao động bền vững, hiệu quả; thúc đẩy mạnh mẽ đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trên các lĩnh vực và chuẩn bị sẵn sàng cho xu thế chuyển dịch đầu tư; làm tốt công tác an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân, đặc biệt chú trọng quan tâm người yếu thế, người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân; rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật để phát triển thị trường bất động sản an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững.

Hoàn thiện thể chế, pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh

Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao quán triệt quan điểm chỉ đạo điều hành kinh tế vĩ mô chủ động, linh hoạt, kịp thời, sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn theo hướng: bảo đảm ổn định trong điều kiện bất định; giữ thế chủ động trước những diễn biến phức tạp, khó lường; kiên định, nhất quán, phù hợp, hiệu quả trước sự biến động, tác động nhiều chiều từ thế giới và trong nước; kiểm soát rủi ro, kịp thời ứng phó với nguy cơ suy thoái, khủng hoảng; tạo dựng phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế trong điều kiện hội nhập sâu rộng. Đồng thời bảo đảm an ninh, an toàn về tiền tệ, tín dụng, tài chính, nợ công, lương thực, năng lượng và thông tin.

Làm tốt công tác quy hoạch; rà soát hoàn thiện thể chế, pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giải quyết tốt các vấn đề phát sinh. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, tạo nền tảng vững chắc cho ổn định vĩ mô và phát triển bền vững. Tập trung xử lý hiệu quả các vấn đề tồn đọng theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

Đồng thời, tiếp tục chú trọng phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, ứng phó biến đổi khí hậu.

Theo dõi sát, nắm chắc diễn biến tình hình, tăng cường năng lực phân tích, dự báo, phản ứng chính sách nhanh, kịp thời, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động, linh hoạt, hiệu quả trong xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách…

 

NVE39 - VIỆT NAM ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC VÀO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 

Chiều 23-11, tại buổi tiếp 91 đại biểu đến từ 45 quốc gia tham dự Đại hội lần thứ 22 Hội đồng Hòa bình thế giới đang diễn ra ở Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn trân trọng, ghi nhớ sự ủng hộ, đoàn kết mạnh mẽ và giúp đỡ quý báu của các tổ chức dân chủ, tiến bộ quốc tế, trong đó có Hội đồng Hòa bình thế giới và các tổ chức thành viên đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đ.e d.ọa hòa bình, ổn định và phát triển, Chủ tịch nước mong muốn và tin tưởng với bề dày truyền thống và nhiều hoạt động tích cực có tính lan tỏa rộng rãi, Hội đồng Hòa bình thế giới sẽ tiếp tục sứ mệnh cao cả của mình trong việc tập hợp, đoàn kết các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới trong đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công lý và phát triển bền vững. Chủ tịch nước tin tưởng Đại hội lần thứ 22 của hội đồng sẽ thành công tốt đẹp với nhiều sáng kiến, chương trình hành động thiết thực thúc đẩy hòa bình và đoàn kết quốc tế.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho biết sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với nhiều thay đổi tích cực, toàn diện và đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam sẽ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế.

Chủ tịch nước mong muốn Hội đồng Hòa bình thế giới, các tổ chức dân chủ quốc tế, các lực lượng hòa bình, tiến bộ thế giới tiếp tục đồng hành, đoàn kết và ủng hộ nhân dân Việt Nam trên chặng đường mới. Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào các phong trào của hội đồng cũng như các phong trào nhân dân tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Tại buổi tiếp, lãnh đạo Hội đồng Hòa bình thế giới và Hội đồng Hòa bình các nước bày tỏ sự kính trọng, tình cảm yêu mến Chủ tịch Hồ Chí Minh; ngưỡng mộ truyền thống, thành tựu của đất nước và nhân dân Việt Nam anh hùng - biểu tượng của hòa bình thế giới. Các đại biểu chúc mừng và đánh giá cao sự chuyển mình mạnh mẽ về mọi mặt của Việt Nam. Đại diện các nước mong muốn hợp tác với Việt Nam để duy trì nền hòa bình thế giới, vì một trật tự thế giới công bằng, công lý, bởi nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình và Việt Nam chiếm vị trí quan trọng trong lòng những người yêu mến hòa bình thế giới.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...