Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 6 tháng 3, 2023

NVD39 - ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC THỦ ĐOẠN CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐÒI XOÁ BỎ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI

 

Hiện nay, các thế lực thù địch đang tích cực đẩy mạnh tuyên truyền chống phá Luật Đất đai, chúng cho rằng Việt Nam nên thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đại hoặc thực hiện chế độ đa sở hữu giống như nhiều nước khác. Đồng thời chúng cho rằng, sở hữu toàn dân là không minh bạch, mù mờ, không xác định được ai là chủ sở hữu trong các quan hệ đất đai, nhất là khi xảy ra tranh chấp đất đai.

Trong điều kiện nước ta đang thực hiện quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa, nếu thiết lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai là một yếu tố cản trở đầu tư cho phát triển KT-XH. Quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa đòi hỏi chuyển một diện tích đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp. Sở hữu tư nhân đất đai sẽ đặt nhà đầu tư vào chỗ phải thỏa thuận với quá nhiều người dân, chỉ một người không đồng ý với phương án chung là kế hoạch đầu tư khó triển khai thực hiện. Mặt khác, những người tư hữu riêng lẻ cũng khó có điều kiện thỏa thuận với nhà đầu tư theo giá có lợi cho họ. Kết quả là sở hữu tư nhân đất đai vừa cản trở quá trình phát triển KT-XH của đất nước, vừa không có cơ chế bảo vệ được lợi ích của nhà đầu tư và của chính người dân.

Bên cạnh đó, sở hữu tư nhân đất đai sẽ dẫn đến kết quả không mong muốn là nảy sinh tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội nảy sinh.

Điều này có thấy từ các minh chứng trong lịch sử. Với sở hữu tư nhân đất đai, người sở hữu đất có quyền đối xử với đất như đối với tài sản riêng, có quyền mua, bán, chuyển nhượng, thậm chí bỏ hoang không sử dụng, cũng như chuyển đổi mục đích sử dụng. Không ai có quyền thu hồi, sử dụng đất của người khác nếu không được chủ đất cho phép. Do đất là tài sản riêng nên người dân có quyền định đoạt nó như hàng hóa trên thị trường bất động sản. Lợi dụng khó khăn hoặc kém hiểu biết của nông dân, một bộ phận người có tiền (từ nhiều nguồn khác nhau mà chúng ta không kiểm soát được) có thể thu gom đất đai để trở thành địa chủ. Điều này đã diễn ra trong cải cách ruộng đất của chế độ Mỹ - Diệm những năm 60 của thế kỷ XX ở miền Nam nước ta.

Ngay cả ở giai đoạn hiện nay, nếu duy trì phổ biến sở hữu tư nhân đất đai cũng sẽ dẫn đến hiện trạng người có nhiều tiền thu gom đất đai và chỉ sử dụng đất vì mục đích cá nhân như làm trang trại để nghỉ ngơi, giải trí, cho thuê nhằm kiếm lời,… Đây sẽ là nguyên nhân dẫn đến một bộ phận nông dân đói nghèo vì không có đất, không còn kế sinh nhai, khi đa phần đất nông nghiệp được chuyển giao theo con đường sở hữu tư nhân cho một số người.

Nếu thực hiện chế độ sở hữu tư nhân đất đai, đành rằng Nhà nước có thể giữ lại quyền quy hoạch mục đích sử dụng từng thửa đất và ràng buộc chủ đất thực hiện một số quy định vì môi trường sống chung, nhưng không ai có quyền ngăn cản người chủ đất sử dụng đất theo ý họ, vì đất là tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến đất đai có xu hướng được sử dụng không hiệu quả, không vì mục đích sinh tồn của đa số dân cư.

Các thế lực thù địch ra sức “cổ vũ” việc sở hữu tư nhân về đất đai, coi đó là biện pháp sử dụng đất hiệu quả đã quên đi mục tiêu xóa bỏ tình trạng dùng quyền sở hữu tư liệu sản xuất (trong đó có đất đai) để nô dịch người khác. Hơn nữa, như C.Mác đã từng chỉ ra, quyền tư hữu có tính độc quyền về đất đai là vật cản của tiến bộ kinh tế, kỹ thuật trong nông nghiệp. Thực tế phân hóa giàu nghèo trong các tư bản phát triển hiện nay cũng chứng minh cho tính đúng đắn của kết luận này.

Dưới chiêu bài ủng hộ hiệu quả sử dụng đất (hiệu quả sử dụng đất theo nghĩa đem lại thu nhập bằng tiền cho người sở hữu đất), chúng lý lẽ rằng, sở hữu toàn dân về đất đai dẫn đến vô chủ và vì vô chủ nên đất được sử dụng không hiệu quả. Chúng cũng lý lẽ rằng, Luật đất đai, vì dựa trên lập trường sở hữu toàn dân nên không chính danh, không xác lập được quan hệ dân sự trong các giao dịch về đất đai nên dẫn đến các giao dịch đất đai của nước ta không giống với thông lệ quốc tế, gây tranh chấp khi có yếu tố nước ngoài. Ở đây, chưa cần bàn đến việc có cho người nước ngoài tự do sở hữu đất đai, nhất là đất sản xuất hay không, nhưng người nước ngoài trên đất Việt Nam phải tuân thủ luật pháp Việt Nam, có lẽ cũng là một thông lệ. Hơn nữa, các nước trên thế giới không có một luật đất đai giống nhau.

Chúng cho rằng, Nhà nước ta không đủ năng lực quản lý đất đai. Chúng cố tình không hiểu rằng, chính vấn đề cần bàn là cần nỗ lực xây dựng một Nhà nước có khả năng quản lý đất đai tốt hơn. Chúng “khăng khăng” cho rằng, yếu kém của Nhà nước trong quản lý đất đai với tư cách đại diện cho sở hữu toàn dân là đương nhiên. Một luận giải khiên cưỡng, bởi nếu Nhà nước không thể thay mặt xã hội quản lý tài sản chung thì đừng nói đến quốc gia XHCN, mà quốc gia ổn định cũng không có.

Sự phù hợp của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là đúng đắn.

Xuất phát từ lập trường “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc gia là đất đai. Đất đai là thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài của cả dân tộc, không thể để cho một số người nào đó “may mắn” trên thị trường có quyền độc chiếm sở hữu. Đất đai của quốc gia, dân tộc phải thuộc sở hữu chung của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của nhân dân. Nhiều diện tích đất đai phải được quy định trong luật là để sử dụng chung như đất làm đường, công viên, bờ biển tập kết của tàu, thuyền ngư dân đánh cá, hồ nước, dòng chảy của sông,… Các cơ quan giám sát tuân thủ pháp luật phải có đủ sức mạnh để không cho phép ai lấn chiếm, sử dụng những diện tích dùng chung một cách tùy tiện.

Sở hữu toàn dân tạo điều kiện để những người lao động có điều kiện tiếp cận đất đai tự do. Với sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhiều người không còn tin vào CNXH và thậm chí họ còn cho rằng, Việt Nam nên bỏ “định hướng XHCN” trong mô hình kinh tế thị trường định hướngXHCN. Song, bản chất XHCN không bị cố định vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, càng không bị trói buộc vào chế độ phân phối bình quân. XHCN dựa trên nền tảng coi trọng lao động, rằng lao động tạo ra xã hội loài người, tạo ra của cải và tạo ra cuộc sống ngày càng tốt hơn cho con người theo nghĩa nhân văn. Chính vì thế lao động là vinh quang, ai không lao động mà sử dụng của cải một cách bất hợp pháp do người khác làm ra là phi đạo đức. Quảng đại quần chúng lao động phải trở thành chủ nhân của xã hội và tự tổ chức lại dưới hình thức xã hội tự nguyện, bình đẳng, bác ái, dân chủ. CNXH như vậy mãi mãi là khát vọng chân chính của loài người. Định hướngXHCN chính là con đường đúng đắn nhất để đưa khát vọng đó dần trở thành hiện thực trong cuộc sống. Song, mô hình nào để chúng ta có thể xây dựng được xã hội như thế ở một nước kinh tế còn đang phát triển với biết bao áp lực của thế giới TBCN bên ngoài và tính ích kỷ trong mỗi cá nhân chúng ta còn lớn? Lời đáp cho câu hỏi đó là chúng ta còn đang phải tìm tòi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Dù mô hình kinh tế XHCN còn chưa được hiện thực hóa, dù trình độ phát triển kinh tế của chúng ta còn thua kém nhiều nước, nhưng không vì thế chúng ta lựa chọn con đường TBCN hy sinh quyền lợi của đa số người lao động, tích lũy của cải vào tay một tỷ lệ phần trăm nhỏ nhoi những người giàu có trong xã hội.

Sở hữu toàn dân không phải là sở hữu nhà nước về đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai là sở hữu chung của toàn dân, nhưng có sự phân chia việc thực hành quyền sở hữu giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Bản chất của cơ chế này là phân chia một cách hợp lý các quyền của chủ sở hữu đất đai giữa người dân và Nhà nước, cũng như giữa các cơ quan nhà nước các cấp.

Luật đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đã trao cho người dân khá nhiều quyền: sử dụng (theo quy hoạch của Nhà nước), chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, thừa kế, góp vốn…Về cơ bản, người dân đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất hiệu quả theo năng lực của họ. Một số hạn chế của quyền chủ sở hữu mà người sử dụng đất không có là: không được tùy ý chuyển mục đích sử dụng đất; hạn điền; thời gian giao đất hữu hạn; phải giao lại đất cho Nhà nước để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, mục đích công cộng. Tương ứng với mở rộng quyền cho người sử dụng đất, quyền của cơ quan nhà nước với tư cách đại diện cho toàn dân thống nhất quản lý đất đai trong cả nước được quy định trên các mặt sau: quy định mục đích sử dụng cho từng thửa đất (bằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); thu hồi đất phục vụ các mục đích an ninh, quốc phòng, mục đích công cộng; thu một số khoản dựa trên đất.

Sở hữu toàn dân về đất đai đem lại nhiều lợi ích phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Không những không cản trở quá trình sử dụng đất hiệu quả ở phương diện vi mô của người sử dụng đất cũng như ở phương diện lưu chuyển quyền sử dụng đất trên thị trường bất động sản, chế độ sở hữu toàn dân còn đem lại nhiều lợi ích phù hợp với đặc thù của nước ta.

Cụ thể là: Chế độ sở hữu toàn dân nhấn mạnh quyền của người dân trong sử dụng quyền của mình để cùng nhau giải quyết các vấn đề bất đồng trong sử dụng và phân chia lợi ích từ đất. Với chế độ pháp quyền XHCN, người dân có quyền cùng nhau xây dựng Hiến pháp quy định về cung cách sống chung và quyền hạn của Nhà nước trong xã hội. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp, khi đa số công dân bị bất lợi trong phân chia lợi ích từ đất đai, họ có thể yêu cầu Nhà nước sửa Luật đất đai phục vụ mục đích chung của công dân, sửa chữa những mất công bằng trong phân phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ không cho phép đa số còn lại thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.

Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tránh cho xã hội chúng ta rơi vào tình trạng bất ổn do một số người có thể đòi hỏi xem xét lại các quyết định lịch sử về đất đai nếu như duy trì chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Với tuyên bố đất đai là thuộc sở hữu chung của mọi công dân Việt Nam được thực thi theo cơ chế Nhà nước được toàn dân ủy quyền cho việc giao đất cho hộ gia đình và tổ chức sử dụng và Nhà nước được ủy quyền quản lý đất đai bảo đảm quá trình sử dụng đất đai làm sao để lợi ích của người sử dụng đất đai thống nhất với lợi ích chung của quốc gia. Khi đó, không có vấn đề tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân. Việc giao đất hay cải cách quản lý của Nhà nước theo hướng mở rộng hơn nữa quyền của người sử dụng đất có lợi cho người lao động, nhất là có lợi cho nông dân, những người trực tiếp sử dụng đất với tư cách tư liệu sản xuất, chỉ là vấn đề tiếp theo của những quyết định đã có trong lịch sử, không phải là một cuộc đảo lộn lịch sử. Cách làm và quan niệm như vậy sẽ tạo được sự đồng thuận cần thiết của cả dân tộc trong bối cảnh nước ta còn không ít khó khăn hiện nay. Về mặt thực tế, duy trì sở hữu toàn dân trong điều kiện hiện nay là cách làm tốt nhất để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.

 

 

 

1 nhận xét:

  1. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên.

    Trả lờiXóa

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...