Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2024

NVI42 - THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

 

Trong suốt thời gian 38 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể khẳng định công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa cho đến nay đã thu được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đưa đất nước ta từ một nước nghèo trên thế giới trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Đất nước ta ngày càng phát triển văn minh, giàu đẹp; vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đời sống của nhân dân ta được cải thiện rõ rệt và ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt. Để đạt được những thành tựu đó, trong suốt quá trình lãnh đạo của mình, Đảng ta luôn kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH); thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam cho phù hợp với thực tiễn phát triển của từng thời kỳ, lãnh đạo đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Có thể tổng kết những thành tựu lý luận lớn của Đảng ta trong lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trên những nội dung chính như sau:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định, bổ sung, định hình ngày càng rõ hơn nội dung các đặc trưng của CNXH Việt Nam trên cơ sở nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên CNXH trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô hình CNXH bao gồm 6 đặc trưng, rồi tiếp tục bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng, thể hiện những bước phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình CNXH, đồng thời cũng là mục tiêu của CNXH Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 1- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 2- Do nhân dân làm chủ; 3- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng; 7- Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo lý luận CNXH khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới, xác lập mục tiêu phát triển trong xây dựng CNXH.

Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng XHCN của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1986 đến nay tiếp tục nhất quán với mục tiêu và con đường ấy; vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hình thành nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh quốc gia và thời đại ngày nay. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng ta lại có bước phát triển mới về vấn đề căn cốt này trên cơ sở tổng kết việc thực hiện mục tiêu CNXH và bảo đảm định hướng XHCN, định hình từng bước mục tiêu, giá trị CNXH trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước.

Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết, kế thừa, làm rõ phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra 7 phương hướng cơ bản và cũng là nội dung cần thiết của cách mạng XHCN và xây dựng CNXH trong thời kỳ đổi mới. Cách xác định phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH trong Cương lĩnh năm 1991 đã đề cập, bao hàm cả phương hướng phát triển. Sau đó, Đại hội X của Đảng (năm 2006), qua tổng kết 20 năm đổi mới, đã cân nhắc, xác định 8 phương hướng nhưng gọn hơn. Kế thừa tinh thần của Đại hội X, tại Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn mục tiêu, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thông qua việc bổ sung, phát triển các phương hướng cơ bản.

Khái quát toàn bộ phương hướng cơ bản xây dựng CNXH trong 38 năm đổi mới cho thấy, sau mỗi kỳ đại hội, trên cơ sở thực tiễn thực hiện phương hướng xây dựng CNXH trên từng lĩnh vực cơ bản, Đảng lại có sự bổ sung, phát triển lý luận về phương hướng rất rõ rệt và ngày càng sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn trên tất cả lĩnh vực. Đây là sự tìm tòi, đổi mới và cống hiến lý luận của Đảng nhằm mục tiêu phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN, phục vụ nhân dân trong bối cảnh mới.

Cùng với đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát hiện và xác định các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, hình thành khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là sự đổi mới căn bản nhận thức, sự đột phá trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta.

          Có thể khẳng định những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước là cơ sở, nền tảng rất quan trọng góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; dẫn dắt, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới giành thắng lợi; từng bước nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế./.

NVI42 - CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG CAMPUCHIA XÂY DỰNG KÊNH ĐÀO FUNAN TECHO ĐỂ CHỐNG PHÁ MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM-CAMPUCHIA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Ngày 30/5, Thủ tướng Campuchia Hun Manet đã thông báo rằng dự án kênh đào Funan Techo (Kênh đào Phù Nam) sẽ khởi công xây dựng vào tháng 8/2024. Lợi dụng sự kiện này trên một số trang mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, VOA…đã lợi dụng việc dự án kênh đào Funan Techo để tung ra những luận điệu bôi xấu chế độ, xuyên tạc bản chất, mức độ của công trình này; mục đích gây chia rẽ mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước, đồng thời nhiều bài viết của chúng còn mang tính chất kích động, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai nước; nhằm hướng lái dư luận để cho Campuchia xây dựng kênh đào.

 Đặc biệt ngày 12/8/2024, trên trang Blog Việt Nam Thời báo tán bài “Địa chính trị của kênh đào Funan Techo của Campuchia”, nội dung xuyên tạc, tuyên truyền vô căn cứ các tác động, mục đích sử dụng của kênh đào Funan Techo được Campuchia khởi công xây dựng vào ngày 05/8/2024, cho rằng “Kênh đào với tiềm năng thúc đẩy các vùng kinh tế do Trung Quốc hậu thuẫn và các cơ sở quân sự biên giới phía Tây Nam Việt Nam, đặt ra thách thức cho an ninh quốc gia Việt Nam”; kích động hận thù dân tộc, tạo mâu thuẫn trong mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc.

          Chúng bịa đặt dự án kênh đào Funan Techo sẽ tác động nghiêm trọng đến tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long ảnh hưởng đến an ninh lương thực của Việt Nam và an ninh trong khu vực… Đây cũng là một chiêu trò để các đối tượng phản động có thể tạo tiền đề để gây bất ổn chính trị trong nước và mối quan hệ hữu nghị của hai Đảng, hai Nhà nước.

Sau khi thông báo dự án kênh đào Funan Techo sẽ khởi công xây dựng các trang mạng phản động như Việt Tân, VOA…đã đăng tải một số bài viết trên trang mạng của chúng như “Kênh đào Phù Nam đã ấn định ngày khởi công: Về phía Việt Nam, chính quyền không có động thái phản đối mà ủng hộ Campuchia khi xây kênh đào Phù Nam Techo và chỉ đề nghị phối hợp chia sẻ thông tin về dự án này”…

Nội dung cơ bản của các bài viết còn nhằm đến công kích mối quan hệ hữu nghị của hai Đảng, hai Nhà nước, gây bất ổn chính trị, kinh tế, xã hội. Lập luận của chúng khi Campuchia xây dựng kênh đào này sẽ làm mực nước sông Cửu Long khô cạn dẫn đến ngập mặn khi nước biển vào, đồng thời tạo điều kiện cho tàu quân sự Trung Quốc hoạt động di chuyển vào kênh đào Phù Nam-Techo là con đường chiến lược đi từ Bắc xuống Nam chạy dọc biên giới nước ta, từ đó ảnh hưởng đến thế phòng thủ đất nước và hoạt động quân sự của ta….

          Chúng ta chẳng còn lạ gì với những luận điệu như thế này của các thế lực thù địchchúng có thể lợi dụng bất kỳ việc gì để xuyên tạc, kích động nhân dân và các phần tử xấu để làm bất ổn chính trị, xã hội trong nước và trên cả mặt trận ngoại giao của Việt Nam, hòng giảm vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế và khu vực. Nắm được dư luận đó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết tại một cuộc họp báo thường kỳ: Việt Nam đề nghị Campuchia chia sẻ thông tin và đánh giá tác động của dự án kênh đào Funan Techo tới tài nguyên nước và môi trường sinh thái khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. “Việt Nam rất quan tâm đến thông tin về dự án kênh đào Funan Techo. Đề nghị Campuchia phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và Ủy ban sông Mê Kông trong việc chia sẻ thông tin, đánh giá tác động của dự án tới tài nguyên nước và hệ sinh thái ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của các nước ven sông và người dân địa phương”.

          Đảng ta cũng xác định các dự án trên còn đem lại những thuận lợi cho Việt Nam, nó có thể thúc đẩy kinh tế, giao lưu thương mại giữa các quốc gia Đông Nam Á. Khi kết hợp với các dự án cơ sở hạ tầng sắp hoàn thành của Việt Nam sẽ tạo ra một chuỗi cung ứng mạnh mẽ, gia tăng khả năng chung chuyển hàng hoá, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, chúng ta cũng nên vun đắp hơn nữa mối quan hệ Việt Nam và Vương quốc Campuchia là mối quan hệ song phương, láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài; Bên cạnh đó Việt Nam cũng cần đánh giá đúng nguy cơ của dự án để vừa đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, vừa giữ vững quan hệ với các quốc gia trong khu vực. Tránh bị các phần tử kích động lôi kéo dẫn đến đi lệch với mối quan hệ truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước đã ký kết.

 

NVI42 - TUYÊN TRUYỀN VỀ THÀNH TỰU CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC VÀ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ta đã xác định 4 nguy cơ cản trở thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Đảng ta đã lãnh đạo cùng lúc thực hiện toàn diện, đồng bộ các biện pháp khắc phục những nguy cơ chỉ ra, kết quả:

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đổi thay lớn nhất mà ta có thể thấy đó chính là về kinh tế - xã hội. Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng nông sản khác đứng hàng đầu thế giới.

Đi cùng với sự phát triển về kinh tế là sự phát triển về xã hội Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được cải thiện. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Năm 2019 chỉ số phát triển con người của Việt Nam đạt mức 0,704 thuộc nhóm nước có chỉ số phát triển cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làn nền tảng tư tưởng. Tích cực xây dựng văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá của dân tộc. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm thế giới. Đối với xây dựng nhà nước, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”.

Đối với nạn tham nhũng, tiêu cực lãng phí Đảng ta nhận định tại Đại hội IX “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta” và những nhận định đó đã được nhắc lại cụ thể và sâu sắc hơn trong các Đại hội X, XI, XII và XIII. Từ năm 2013 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được Đảng chỉ đạo ráo riết, quyết liệt và có những chuyển biến tích cực. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến này, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Uỷ viên, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng. Qua thanh tra, kiểm toán, các cơ quan chức năng đã kiến nghị xử lý tài chính, thu hồi 82.560 tỷ đồng và 883ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 3.530 tập thể và 8.619 cá nhân.

Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ nguôi hy vọng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta, xoá bỏ đi những thành trì chủ nghĩa xã hội trên thế giới, chúng sử dụng dũng nhiều chiêu bài, luận điệu, chủ yếu bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”, thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên mọi lĩnh vực đời sống. Lợi dụng vào những mặt hạn chế trong công tác quản lý của Nhà nước ta, chúng dùng mọi luận điệu để xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng của ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Trên các trang mạng xã hội, chúng tung những thông tin sai lệch và luận điệu bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; kích động mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, giữa Đảng với nhân dân, kích động đòi xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 nhằm phủ nhận vai trò của Đảng ta.

Như lời Bác dặn “Bất cứ một người lao động nào, dù thông minh đến đâu, đôi lúc cũng có thể sai lầm. Chỉ có những kẻ ngồi không mới không có sai lầm mà thôi. Nhưng làm việc mà có sai lầm còn hơn là sợ sai lầm mà khoanh tay ngồi không”. Bác nhắc đến người lao động nói chung và nhắc tới cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta nói riêng. Trước những khó khăn trước sau, trên dưới, dọc ngang thông suốt cùng nhau tiến hành công cuộc đổi mới, thực tế có những hạn chế còn tồn tại, nhưng Đảng ta không giấu giếm. Đảng ta đã lĩnh hội lời Bác căn dặn: “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Chính vì thế Đảng và Nhà nước ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạt được nhiều thành tựu để như lời nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua và đưa voà Nghị quyết Đại hội: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giừo có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

NVH41 - Xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kích động "Từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013".

 

Nhìn lại công cuộc đổi mới, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm. Đến năm 2023, quy mô GDP không ngừng được mở rộng, đạt 430 tỷ đô la Mỹ (USD), lọt nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới; thu nhập bình quân đầu người mức 4.284,5 USD; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, đạt trên 683 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 355,5 tỷ USD; dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 11.902 tỷ USD; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9% giảm 1,1% so với năm 2022.

Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Các đội tuyển học sinh Việt Nam tham dự Olympic khu vực và quốc tế liên tục mang về thành tích cao, lọt trong top 10 quốc gia đạt kết quả cao nhất.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có bước tiến bộ rõ rệt, hệ thống bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 94% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,7 tuổi hiện nay.

Các lĩnh vực văn hoá, xã hội vẫn tiếp tục được quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch COVID-19, đã giải ngân 104.000 tỷ đồng, hỗ trợ cho gần 58 triệu người dân, người lao động và 1,4 triệu người sử dụng lao động.

Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam là thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ.

Đối với công tác phòng, chống tham nhũng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị cố tình cho rằng đây là những cuộc thanh trừng đấu đá mang tính chất phe phái để tranh chức, đoạt quyền để kích động, gây mất đoàn kết nội bộ.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay đang tiếp tục được đẩy mạnh, có bước tiến mới, quyết liệt, đồng bộ, toàn diện và hiệu quả hơn; thể hiện qua số lượng vụ án được xử lý ngày càng nhiều, trên hầu hết lĩnh vực, ở tất cả địa phương. “Trong năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm; thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp sau khi bị kỷ luật, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý. Qua thanh tra, kiểm toán, các cơ quan chức năng đã kiến nghị xử lý tài chính, thu hồi 82.560 tỷ đồng và 883 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 3.530 tập thể và 8.619 cá nhân; đã chuyển 557 vụ việc có dấu hiệu phạm tội sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

Những kết quả nêu trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã lan tỏa rất mạnh mẽ và có “sức bật mới”, ngày càng đi vào chiều sâu, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, bất kể người đó là ai.

Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm chống phá; chúng luôn cho rằng Đảng là người đứng trên pháp luật, không chịu sự chi phối của pháp luật nên không cần tuân theo pháp luật. Thực tế không phải như vậy, trong điều 4 của Hiến pháp đã nêu rõ: Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Xem xét từ góc độ lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa đảng chính trị và dân chủ trong lịch sử, cũng như hiện nay cho thấy, không phải cứ đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ.

Thực tiễn cho thấy, dù nhiều quốc gia thực hiện đa đảng, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc quyền làm chủ của đa số nhân dân được bảo đảm. Những cuộc lật đổ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị ở một số nước trên thế giới hiện nay làm cho hàng chục triệu người thiệt mạng, hàng chục triệu người khác lâm vào cảnh nghèo đói.

Từ lý luận và tổng kết thực tiễn ở trên cho chúng ta khẳng định: Luận điệu “một đảng thì mất dân chủ, cản trở sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là hoàn toàn sai trái và không dựa trên cơ sở khoa học. Đa đảng không phải là yếu tố bảo đảm dân chủ đích thực, bởi bản chất của dân chủ là “quyền lực thuộc về nhân dân”.

Tóm lại, mọi luận điệu tuyên truyền của các thế lực phản động xét cho cùng đều không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Như Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những bằng chứng đanh thép trên đây đã đập tan tất cả luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị luôn rêu rao về cái gọi là “chế độ một đảng là mất dân chủ”, “một đảng mới dẫn đất nước tới nghèo đói”./.

 

 

NVH42 - Quy định 148-QĐ/TW: Khuyến khích cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; không còn né tránh, đùn đẩy trách nhiệm

 

Thực trạng và sự cần thiết ban hành Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”.


Trước thực trạng cán bộ, đảng viên e ngại, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong công tác làm cho chất lượng hoàn thành nhiệm vụ được giao thấp. Với lý do là có sự chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật; họ tin rằng không làm thì không sai, không sai thì không phải chịu trách nhiệm, cùng lắm là đứng trước cuộc họp kiểm điểm do thiếu nhiệt huyết, không thể “mất ghế” còn hơn là đứng trước vành móng ngựa. Họ chỉ nghĩ cho bản thân, bo bo giữ chiếc ghế, đẩy khó khăn cho người dân, làm đứt gãy các hoạt động kinh tế, sản xuất và làm cho đất nước chậm phát triển, không hoàn thành được các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra. Dù “căn bệnh sợ trách nhiệm” mới xuất hiện ở một số cán bộ các cấp nhưng nếu như không kịp thời ngăn chặn, nó sẽ âm thầm lây lan, có nguy cơ trở thành “dịch”, cản trở sự phát triển của đơn vị, địa phương, rộng ra là của cả nước.


Ở các tỉnh, thành, địa phương trên cả nước xuất hiện “căn bệnh sợ trách nhiệm” trong một số cán bộ các cấp. Căn bệnh mới này là một trong những nguyên nhân cản trở quá trình thực thi nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, làm chậm tiến trình phát triển đất nước. Việc Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”, là một quyết sách quan trọng, kịp thời của Đảng ta. Quy định số 148 có 3 điểm đáng lưu ý sau:


Sự cần thiết, cấp bách trong bối cảnh, tình hình hiện nay cần phải khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên; đặc biệt là tầm quan trọng về sự chỉ đạo, điều hành của cán bộ lãnh đạo quản lý trong thực thi nhiệm vụ được giao mang tính quyết định đến quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ quan, đơn vị, các địa phương trên cả nước. Thông qua Quy định 148, Trung ương muốn lưu ý, nhắc nhở, đặt trách nhiệm rất cao cả đến toàn bộ đội ngũ, cán bộ, đảng viên về bổn phận phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.


Quy định 148 là những phương hướng, giải pháp quan trọng, hiệu quả rất chủ động, kịp thời của Đảng nhằm kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện mới nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đồng thời có ý nghĩa là phương thuốc hữu hiệu nhằm giáo dục, cảnh báo đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm, hành động đúng đắn về trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước.


Quy định 148 với 4 chương, 12 điều, 31 khoản quy định cụ thể, Trung ương Đảng đã thật sự phân quyền, trao quyền, giao trọng trách cho người người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có thẩm quyền rất quan trọng mang tính quyết định đến sự thành bại trong lãnh đạo, quản lý, điều hành sự phát triển địa phương, cơ quan, đơn vị...

Từ đó có thể thấy rằng sự ra đời của Quy định số 148-QĐ/TW là cần thiết nhằm giải quyết ngay lập tức việc ùn tắc, đứt gãy trong các hoạt động dân sự, kinh tế - xã hội.

Khuyến khích cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

Quy định 148 của Trung ương có ý nghĩa, giá trị toàn diện, sâu sắc trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hệ thống chính trị. Đồng thời, Quy định 148 còn là một cách gián tiếp khuyến khích cán bộ, đảng viên thực hiện tốt tinh thần 7 dám: “Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhanh, bền vững.


Quy định 148 là hồi chuông cảnh tỉnh, cảnh báo, làm thức tỉnh những cán bộ sợ trách nhiệm, ý thức kém về trách nhiệm công vụ; thờ ơ trước yêu cầu phát triển của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị, vô cảm trước nhu cầu, mong mi của người dân và đòi hỏi của xã hội; những cán bộ thiếu bản lĩnh, trình độ chuyên môn kém nên e ngại, không dám thực thi nhiệm vụ rồi sẽ phải suy nghĩ lại và hành động tích cực, quyết tâm và quyết liệt với chức trách, nhiệm vụ được giao. Và quy định mới này sẽ là cơ sở để lãnh đạo các cơ quan, đơn vị xử lý được ngay những trường hợp cán bộ, công chức, viên chức né tránh, đùn đẩy công việc, không tích cực, nhiệt huyết với công việc được phân công. Quy định 148 bắt buộc cán bộ, công chức, viên chức ý thức trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, hiệu quả, chất lượng công việc sẽ được nâng lên. Đồng thời, Quy định 148 cũng nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong triển khai nhiệm vụ; và trong công tác lãnh đạo, quản lý cũng sẽ sâu sát hơn, chỉ đạo quyết liệt hơn, tạo thuận lợi cho người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị quyết tâm, nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ.


Sau khi Trung ương ban hành Quy định 148, các cấp ủy Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, dư luận trong xã hội rất tích cực, tin tưởng mọi cán bộ, đảng viên sẽ có sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức và hành động. Đây sẽ là đòn bẩy quan trọng trong tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự phát triển nhanh của địa phương, cơ quan, đơn vị.


Có thể nói, Quy định 148 chứa đựng những nội dung vừa mang tính toàn diện, bao trùm nhưng cũng vừa cụ thể, chi tiết; đây là một văn bản của Đảng mang tính khoa học, bài bản, chặt chẽ và với sự uy nghiêm, mạnh mẽ, hiệu lực khi được triển khai tổ chức thực hiện sâu rộng, nghiêm túc trong toàn hệ thống chính trị thì chúng ta hoàn toàn hy vọng trong thời gian tới sẽ làm xoay chuyển tình thế trong công tác cán bộ và quá trình thực thi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Những cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy công việc, thoái thác nhiệm vụ sẽ khó có thể “ngồi im, giữ ghế” mà sẽ phải thay đổi theo hướng tích cực, phải thể hiện bản lĩnh chính trị, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức trách được giao./.

 

NVE42 - ĐƯA QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC NGÀY CÀNG THỰC CHẤT, HIỆU QUẢ HƠN

 

Hướng tới dấu mốc quan trọng năm 2025, dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, hai bên khẳng định nỗ lực phấn đấu thúc đẩy, đưa quan hệ song phương lên tầm cao mới, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn.

Chuyến thăm cấp Nhà nước đến Trung Quốc là chuyến công tác nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị mới. Chuyến thăm diễn ra từ ngày 18-20/8/2024, là hoạt động đối ngoại đặc biệt quan trọng giữa hai nước trong năm nay, có tác động to lớn đối với xu thế phát triển của quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời gian dài tiếp theo.

Việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhận lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tiến hành thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc đầu tiên sau khi đảm nhiệm cương vị mới thể hiện sự coi trọng, ưu tiên hàng đầu của cả hai bên trong việc củng cố và phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược.

Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sau hơn 30 năm thực hiện bình thường hóa, đặc biệt là sau hơn 15 năm kể từ khi thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện năm 2008 đến nay đã có những bước tiến nhanh chóng và ngày càng sâu sắc, toàn diện trên các lĩnh vực.

Sau chuyến thăm chính thức Trung Quốc mang tính lịch sử của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 10/2022 và chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam lần thứ ba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 12/2023, hai bên đã nhất trí tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược theo định hướng “6 hơn”, mở ra chương mới cho quan hệ song phương.

Từ đầu năm 2024 đến nay, quan hệ hai nước duy trì đà phát triển tích cực, không khí hợp tác lan tỏa mạnh mẽ đến các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Hai bên đều đánh giá quan hệ song phương đang ở mức độ sâu sắc, toàn diện, thực chất nhất từ trước đến nay.

NVD42 - CHIÊU TRÒ CHỐNG PHÁ MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM-CAMPUCHIA TRONG XÂY DỰNG KÊNH ĐÀO FUNAN TECHO CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Theo QSC - Ngày 30/5, Thủ tướng Campuchia Hun Manet đã thông báo rằng dự án kênh đào Funan Techo (Kênh đào Phù Nam) sẽ khởi công xây dựng vào tháng 8/2024 trên một số trang mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, VOA…đã lợi dụng việc dự án kênh đào Funan Techo để tung ra những luận điệu bôi xấu chế độ, xuyên tạc bản chất, mức độ của công trình này; mục đích gây chia rẽ mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước, đồng thời nhiều bài viết của chúng còn mang tính chất kích động, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai nước; nhằm hướng lái dư luận để cho Campuchia xây dựng kênh đào.

Sau khi thông báo dự án kênh đào Funan Techo sẽ khởi công xây dựng các trang mạng phản động như Việt Tân, VOA…đã đăng tải một số bài viết trên trang mạng của chúng như “Kênh đào Phù Nam đã ấn định ngày khởi công: Về phía Việt Nam, chính quyền không có động thái phản đối mà ủng hộ Campuchia khi xây kênh đào Phù Nam Techo và chỉ đề nghị phối hợp chia sẻ thông tin về dự án này”…

Nội dung cơ bản của các bài viết còn nhằm đến công kích mối quan hệ hữu nghị của hai Đảng, hai Nhà nước, gây bất ổn chính trị, kinh tế, xã hội. Lập luận của chúng khi Campuchia xây dựng kênh đào này sẽ làm mực nước sông Cửu Long khô cạn dẫn đến ngập mặn khi nước biển vào, đồng thời tạo điều kiện cho tàu quân sự Trung Quốc hoạt động di chuyển vào kênh đào Phù Nam-Techo là con đường chiến lược đi từ Bắc xuống Nam chạy dọc biên giới nước ta, từ đó ảnh hưởng đến thế phòng thủ đất nước và hoạt động quân sự của ta….

Chúng ta cần nhận thức đúng rằng, với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc triển khai dự án sẽ đem lại nhiều lợi ích không chỉ riêng cho vương quốc Campuchia mà còn nhiều quốc gia khác, đặc biệt các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á lục địa. Vì vậy dự án sẽ có tiềm năng được nhiều quốc gia tham gia hợp tác, đầu tư, giúp cho Campuchia có vốn, cơ sở hạ tầng để thực hiện thi công kênh đào Funan. Việt Nam và Campuchia vốn là những đối tác thương mại thân thiết trong khu vực: “về thương mại, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Campuchia tiếp tục giữ được đà tăng trưởng tích cực. Năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 9,3 tỷ USD, tăng 84% so với năm 2020, trong đó Việt Nam xuất sang Campuchia đạt 4,7 tỷ USD, nhập khẩu từ Campuchia đạt 4,6 tỷ USD”.  Ngoài ra, 2 nước luôn có sự đầu tư cho những dự án của nhau, cụ thể: “Việt Nam hiện có 188 dự án đầu tư sang Campuchia còn hiệu lực, với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 2,846 tỷ USD, đứng thứ 2 trong tổng số 78 quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài; Campuchia có 21 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 64 triệu USD, đứng thứ 54 trong 132 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.” Điều đó cho thấy rằng, hai nước đã đạt được kết quả tích cực trong hợp tác song phương. Bên cạnh đó, việc tích hợp kênh đào Funan với tuyến đường sắt xuyên Á có khả năng thúc đẩy Việt Nam thực hiện hoàn thiện các cơ sở vật chất, đảm bảo các quy định để xem xét mở một tuyến sang Việt Nam ở các tỉnh phía Nam. 

Tiêu biểu là thành phố Hồ Chí Minh – trung tâm tài chính của miền Nam cũng như cả nước. Khi thực hiện được sự liên kết này, quá trình vận chuyển hàng hóa sẽ được giảm thời gian và chi phí hơn, tạo điều kiện cho sự hợp tác ở biên giới giữa 2 quốc gia được nâng cao. Khi thực hiện dự án kênh đào Funan, điều này sẽ giúp cho cảng biển của 2 nước phát triển và hoạt động mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, không chỉ phát triển về hệ thống vận chuyển, sự hợp tác cũng sẽ thúc đẩy hai nước hoạt động mạnh mẽ hơn về ngư nghiệp, khai thác khoáng sản. Việc phát triển cơ sở hạ tầng mạnh mẽ đến từ cả 2 nước sẽ tạo điều kiện cho người dân, nguồn lao động của hai quốc gia có những cơ hội việc làm đa dạng và tốt hơn. Từ những điểm sáng này, 2 nước sẽ có khả năng nhận được đầu tư từ các nước khác trong khu vực, tăng cường hợp tác quốc tế sâu rộng hơn.

          Chúng ta chẳng còn lạ gì với những luận điệu như thế này của các thế lực thù địch, chúng có thể lợi dụng bất kỳ việc gì để xuyên tạc, kích động nhân dân và các phần tử xấu để làm bất ổn chính trị, xã hội trong nước và trên cả mặt trận ngoại giao của Việt Nam, hòng giảm vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế và khu vực. Nắm được dư luận đó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết tại một cuộc họp báo thường kỳ: Việt Nam đề nghị Campuchia chia sẻ thông tin và đánh giá tác động của dự án kênh đào Funan Techo tới tài nguyên nước và môi trường sinh thái khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. “Việt Nam rất quan tâm đến thông tin về dự án kênh đào Funan Techo. Đề nghị Campuchia phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và Ủy ban sông Mê Kông trong việc chia sẻ thông tin, đánh giá tác động của dự án tới tài nguyên nước và hệ sinh thái ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của các nước ven sông và người dân địa phương”.

          Đảng ta cũng xác định các dự án trên còn đem lại những thuận lợi cho Việt Nam, nó có thể thúc đẩy kinh tế, giao lưu thương mại giữa các quốc gia Đông Nam Á. Khi kết hợp với các dự án cơ sở hạ tầng sắp hoàn thành của Việt Nam sẽ tạo ra một chuỗi cung ứng mạnh mẽ, gia tăng khả năng chung chuyển hàng hoá, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, chúng ta cũng nên vun đắp hơn nữa mối quan hệ Việt Nam và Vương quốc Campuchia là mối quan hệ song phương, láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài; Bên cạnh đó Việt Nam cũng cần đánh giá đúng nguy cơ của dự án để vừa đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, vừa giữ vững quan hệ với các quốc gia trong khu vực. Tránh bị các phần tử kích động lôi kéo dẫn đến đi lệch với mối quan hệ truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước đã ký kết

NVC42 - KHÔNG ĐỂ NHỮNG “CHUYỆN NHỎ” ẢNH HƯỞNG XẤU TỚI ĐẤT NƯỚC

 

Thời gian qua, trên một số trang mạng, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đăng tải theo kiểu thổi phồng, quy chụp, bịa đặt những vụ việc tiêu cực ở Việt Nam, trong đó có hiện tượng tham nhũng và cán bộ, công chức ứng xử, phát ngôn không đúng, chúng còn “bình loạn”, chụp mũ rằng Việt Nam nghèo đói, kém phát triển, môi trường sống không an toàn... Với thủ đoạn cố tình lờ đi tất cả những điều tốt đẹp, những thành tựu to lớn mà Đảng, Nhà nước, nhân dân ta đã làm được; chỉ xoi mói, tìm kiếm những sự việc tiêu cực, hình ảnh xấu để bêu riếu, các đối tượng thiếu thiện chí đã khiến không ít bạn bè quốc tế có cái nhìn chưa khách quan, toàn diện về đất nước và con người Việt Nam. Vì thế, bên cạnh công tác đấu tranh, vạch trần những âm mưu, luận điệu sai trái, chúng ta phải kiên quyết chấn chỉnh, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật trong nội bộ; kiên quyết xử lý những tập thể, cá nhân thiếu trách nhiệm, để xảy ra cảnh xấu xí, nhếch nhác, làm tổn hại tới uy tín, hình ảnh của đất nước.  

Âm mưu của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta không bao giờ thay đổi, đồng thời, phương thức, thủ đoạn chống phá của chúng ngày càng tinh vi, nham hiểm, triệt để lợi dụng mọi sơ hở của ta để công kích. Do đó, chính chúng ta phải kiên quyết và nỗ lực khắc phục những hạn chế, yếu kém, tự làm đẹp mình hơn nữa để nhân dân thêm tin tưởng vào Đảng, Nhà nước; bạn bè quốc tế thêm hiểu và yêu mến đất nước, con người Việt Nam.

Thực tế thời gian qua, nước ta đã đạt được nhiều thành quả ấn tượng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh; tích cực tham gia đóng góp vào giữ gìn hòa bình, ổn định, vì sự phát triển của khu vực và thế giới; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đây là sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận./.

 

 

NVC42 - XỬ NGHIÊM “THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH”

 

Cần quán triệt nghiêm túc, đầy đủ nội dung, tinh thần của Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, qua đó cần đề cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của cấp ủy đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm vi phạm; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng “tham nhũng chính sách”, lồng ghép “lợi ích nhóm”, hoặc sơ suất trong xác định chính sách. Đây là nhấn mạnh của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định tại Hội nghị quán triệt, triển khai một số luật, nghị quyết của Quốc hội Khóa XV mới đây.

“Tham nhũng chính sách” là từ khóa được nhắc đến nhiều trong thời gian qua để nói về những tiêu cực phát sinh trong quá trình xây dựng chính sách. Tại Quy định số 178-QĐ/TW của Bộ Chính trị, hành vi tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật đã được chỉ rõ, đó là hành vi của người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong công tác xây dựng pháp luật vì vụ lợi.

Trong khi đó, “lợi ích nhóm, cục bộ” trong công tác xây dựng pháp luật là hành vi tham nhũng của người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật cố ý lồng ghép, đưa vào hoặc không đưa vào trong văn bản quy phạm pháp luật các quy định với mục đích phục vụ, đáp ứng hoặc bảo vệ lợi ích riêng của một nhóm người hoặc lợi ích cục bộ của cơ quan, tổ chức, địa phương, doanh nghiệp mà lợi ích đó có tính chất không chính đáng, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích của Nhân dân.

Trong khi hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi khó phát hiện, thì “tham nhũng chính sách” còn khó nhận biết hơn rất nhiều. Bởi “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” được cài cắm rất tinh vi trong các chính sách pháp luật, mà nếu cơ quan “gác cổng” là cơ quan thẩm định, cơ quan thẩm tra không xem xét cẩn trọng, thấu đáo và dũng cảm để “bác” thì rất dễ để lọt những quy định chính sách chỉ làm làm lợi cho một nhóm tổ chức, cá nhân nào đó mà không phải vì lợi ích chung.

Thực tế cũng cho thấy, thiệt hại do hành vi tham nhũng thông thường gây ra có thể đo đếm được bởi lượng tài sản của nhà nước bị thất thoát, thì thiệt hại do “tham nhũng chính sách” lại rất khó để lượng hóa. Khó đong đếm là vậy nhưng ai cũng biết “tham nhũng chính sách” lại rất nguy hiểm, bởi việc bỏ lọt các lợi ích nhóm được cài cắm trong các chính sách vô hình trung chúng ta đang tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ cho hành vi tham nhũng có tính hệ thống. Khi “tham nhũng chính sách” không bị phát hiện, ngăn chặn kịp thời sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội, gây xung đột lợi ích, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật, gây phân tán nguồn lực của đất nước, ảnh hưởng đến sự cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và sâu xa hơn ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó, rất cần cơ chế xử lý trách nhiệm nghiêm khắc khi để xảy ra “tham nhũng chính sách”, lợi ích nhóm, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.

Để có cơ sở cho việc xử lý đối với hành vi này, Quy định số 178-QĐ/TW cũng đã nêu rõ, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Những hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật chưa có quy định xử lý thì căn cứ vào Điều lệ và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệ và quy định của các tổ chức đoàn thể để xử lý cho phù hợp. Trường hợp đã xử lý kỷ luật, nhưng xét thấy cần thiết thì cấp có thẩm quyền phải kiên quyết điều chuyển người vi phạm khỏi vị trí công tác đang đảm nhiệm, thay thế, cho thôi giữ chức, miễn nhiệm, từ chức, không bố trí công tác liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật. Đối với trường hợp vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng để xử lý theo quy định của pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ.

Quy định số 178-QĐ/TW có ý nghĩa rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc xử lý tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật. Ngoài nâng cao tính liêm chính của từng cơ quan trong từng khâu xây dựng pháp luật gồm: soạn thảo, thẩm định và thẩm tra, tin rằng, những biện pháp xử lý cứng rắn này sẽ tránh xảy ra tình trạng “lọt lưới” các chính sách pháp luật chỉ phục vụ cho một nhóm lợi ích nào đó./.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...