Lịch sử
lập hiến Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1954, 1980, 1992, 2013)
nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kế thừa những
thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên có những ý kiến đề nghị:
“Cần thực hiện Tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước” ở Việt Nam
theo mô hình Nhà nước tư sản nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn luôn kiên
định quan điểm về việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng
thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của
Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp 2013 định danh và làm rõ hơn nguyên
tắc phân công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng, thẩm
quyền của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều
chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung một số thiết
chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Tuy nhiên một số cá nhân đã lợi dụng việc
này để yêu cầu và cho rằng “cuộc khủng hoảng về học thuyết, về chế độ chính
trị, khi học thuyết Mác – Lênin cổ xúy đấu tranh giai cấp và bạo lực, khi chế
độ chuyên chính vô sản lập nên độc quyền đảng trị, khi mô hình cầm quyền theo
kiểu ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp do một đảng tập trung nắm giữ, quyền
lực không có kiểm tra, kiểm soát theo luật, dẫn đến hoàn toàn không có pháp
quyền, không có bầu cử, ứng cử tự do...”.Đây là một quan điểm hoàn toàn sai lầm
và đi ngược lại với truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam. Suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết một lòng để
chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Có thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết
dân tộc, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở thành giá trị văn hóa, ăn sâu
trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, phương pháp tư duy
cơ giới - nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt, không có mối liên hệ với
nhau, “kiềm chế - đối trọng tuyệt đối” của thuyết tam quyền phân lập không phù
hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc ta, không được dân tộc ta chấp
nhận.
Phân quyền là một trong những lý thuyết
chính trị - pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn chính trị
thế giới. So với các tư tưởng chính trị trong các chế độ độc tài chuyên chế, lý
thuyết phân quyền được coi là tư tưởng thời đại, đánh dấu sự chuyển biến từ
việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên chế sang việc thực thi
quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Tư tưởng phân quyền được các nhà triết
học đặt ra từ thời La Mã cổ đại, phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện ở thời kỳ
Khai sáng với sự ra đời của thuyết Tam quyền phân lập.
Aristote (384 - 322 TCN) - nhà triết học
cổ đại Hy Lạp khẳng định: “Trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu
tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ
quan thực thi pháp luật và tòa án”. Về sau tư tưởng về các bộ phận quyền lực
dần dần được các nhà tư tưởng của cách mạng tư sản đưa lên thành học thuyết
hoàn chỉnh.
Có thể nói, với mục đích chống lại sự lạm
quyền, thuyết phân quyền đã thể hiện sự tiến bộ so với chế độ quân chủ chuyên
chế trước đó. Tuy nhiên, học thuyết này chịu ảnh hưởng lớn từ thuyết cơ giới -
một học thuyết ra đời và phát triển ở thế kỷ XVII - XVIII với đại diện là các
nhà khoa học nổi tiếng như Copernicus, Galilé, Descartes… Tư duy cơ giới nhìn nhận
tổng thể chỉ là sự cộng lại đơn thuần của các bộ phận, nhìn nhận sự vật trong
thế cô lập, tách biệt, không có mối liên hệ nhau. Đến thế kỷ XIX, chính các
nước phương Tây đã nhận ra và có xu hướng khắc phục quan điểm này bằng tư duy
hệ thống.
Như vậy, có thể thấy, ngay trong tư tưởng
của các nhà phân quyền đã khẳng định sự thống nhất vốn có của quyền lực nhà
nước. Bởi, việc “ghép lại” hoặc “tách ra” các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà
nước cũng chính là việc tạo nên và bắt nguồn từ một chỉnh thể thống nhất của
quyền lực nhà nước. Thực tế cho thấy, quyền lực nhà nước dù có tổ chức theo tam
quyền phân lập thì thực chất vẫn là thống nhất. Việc định ra các bộ phận của
quyền lực nhà nước như quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chẳng qua chỉ là phân
công lao động quyền lực, xác định các vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ
phận và mối quan hệ, ràng buộc giữa các bộ phận đó trong việc thực thi quyền
lực nhà nước thống nhất mà thôi. Thực tế các nước tư bản, quyền lực luôn có xu
hướng tập trung vào tay giai cấp tư sản cầm quyền.
Xuất phát từ nguồn gốc tư tưởng, những ưu
điểm, hạn chế của học thuyết tam quyền phân lập, xu hướng thống nhất quyền lực
ở chính các nước tư bản; từ thực tiễn thể chế chính trị và truyền thống văn
hóa, tâm lý dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không lựa chọn thể chế tam
quyền phân lập là phù hợp. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân là một trong những quan điểm, đường lối thể hiện sự vận dụng sáng
tạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những hạt nhân hợp lý của thuyết tam quyền
phân lập. Tư tưởng này đã và đang phát huy được vai trò của mình trong tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét