Như “đến hẹn lại lên”, cứ chờ Việt Nam “có việc” là bọn phản
động, cơ hội chính trị lại nhao nhao xông lên chĩa “ngọn giáo” về phía đồng
bào, Tổ quốc mình. Gần đây nhất, nhân sự kiện xảy ra ở xã Đồng Tâm (Hà Nội,
tháng 4 năm 2017), Lê Công Định có bài phê phán chế độ sở hữu và cách thức quản
lý đất đai ở Việt Nam, từ đó “đề xuất” những “giải pháp” giải quyết. Vậy thực
chất của Lê Công Định là gì? Hắn muốn gì qua vụ việc “Đồng Tâm”?
Trong bài viết, sau khi nêu khái lược quá trình quản lý đất
đai trong lịch sử nước ta, Lê Công Định cho rằng từ năm 1955 ở miền Bắc và từ
năm 1975 ở miền Nam chế độ tư hữu chấm dứt, được thay thế bằng quan niệm “quyền
sử dụng đất”, xuất phát từ sở hữu toàn dân. Hắn đánh giá đây là “một quan niệm lạ kỳ”, “sở hữu toàn dân là một quan niệm chính trị
bay bổng về kinh tế của người cộng sản, nhưng được lồng ghép một cách cưỡng bức
thông thường về quyền sở hữu tài sản”, “sở
hữu toàn dân thực chất chỉ là một hư quyền”, “Nhà nước CHXHCNVN với thực quyền sở hữu đất đai nghiễm nhiên trở thành
giai cấp đại địa chủ duy nhất và lớn nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Hắn
hồ đồ luận giải: “Người nông dân lại
không có quyền định đoạt lợi ích từ mảnh đất của chính mình trên thực tế. Họ
khác gì các tá điền thời phong kiến? Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, suy cho
cùng chính là Tô Tá Khế, tức hợp đồng thuê đất canh tác dìa hạn, mà tá điền phải
kí kết với địa chủ và trả tiền thuê đất dưới hình thức địa tô”.
Từ những lập luận khiên cưỡng, xằng bậy đó, hắn đi đến kết
luận: “Tình trạng pháp lý của đất đai ở
Việt Nam hiện nay là “công hữu tư dụng”. Từ đó hắn kể ra những thứ mà được
gọi là “hệ lụy” như việc giao dịch mua bán đất “phải thực hiện nhiều thủ tục vòng vo phiền toái”, “ưu đãi nhóm lợi ích và nhận hối lộ”…
Trên cơ sở những luận điểm rông dài đó, hắn đề xuất “giải pháp” giả nhân giả
nghĩa: “Đã đến lúc phải từ bỏ khái niệm sở
hữu toàn dân về đất đai… sửa đổi Hiến pháp để tư hữu hóa các loại đất dùng vào
mục đích dân sinh và kinh tế… Nếu không xã hội sẽ ngày càng bất ổn thêm, mà điều
đó thì hoàn toàn bất lợi cho chính đảng cầm quyền chứ không ai khác”.
Qua những quan điểm trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy
sự hồ đồ (hay cố tình hồ đồ) trong nhận thức, lập luận của Lê Công Định.
Trước hết, cần khẳng định rằng, sở hữu toàn dân về đất đai
không phải là “một quan niệm lạ kỳ”,
“một quan niệm chính trị bay bổng về kinh
tế của người cộng sản”, người dân không có thực quyền gì đối với đất đai. Bởi
vì, sở hữu toàn dân về đất đai không đồng nhất với sở hữu nhà nước về đất đai.
Sở hữu toàn dân về đất đai phải được hiểu là đất đai không thuộc sở hữu của
riêng ai, toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu và được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý. Việc quy định Nhà nước ở
nước ta là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất quản lý xuất phát từ bản
chất của Nhà nước là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì
dân, mọi tài sản, tư liệu sản xuất do Nhà nước đại diện cho dân là chủ sở hữu đều
được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích chung của toàn thể nhân dân, chứ hoàn
toàn không phải là “giai cấp đại địa chủ
duy nhất và lớn nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Thực hiện chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai không làm hạn chế đến quyền của tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
Luật Đất đai quy định người sử dụng đất có các quyền chung và các quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn
quyền sử dụng đất. Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta
hiện nay giúp tránh được những hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra
mà Các Mác và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra đó là nguồn gốc đẻ ra địa tô, làm cho
giá cả nông phẩm tăng, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng, trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945, chế độ sở hữu phong kiến về đất đai mà hình thức sở hữu đặc trưng
là sở hữu tư nhân về đất đai đã kìm hãm sự phát triển nông nghiệp và dẫn đến
tình cảnh đại đa số nông dân không có ruộng đất, phải thuê lại của địa chủ,
phong kiến nên bị bóc lột địa tô rất nặng nề. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu
phong kiến về đất đai là một trong những mục tiêu của cách mạng nước ta do nhân
dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta hiện nay, thực hiện chế độ
sở hữu tư nhân về đất đai, một mặt sẽ là phủ nhận thành quả cách mạng của nhân
dân ta giành được trải qua quá trình đấu tranh vô cùng gian khổ với bao sự hy
sinh, mất mát của các thế hệ chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Nam; mặt
khác, sẽ tạo ra tiền đề, cơ hội dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa chủ mới -
giai cấp từng gây bao đau khổ cho nông dân nước ta trước đây. Chỉ có thực hiện
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, chúng ta mới xóa bỏ tình trạng một nhóm người
dùng độc quyền sở hữu đất đai để bóc lột người sử dụng đất.
Với
cách hiểu như trên, toàn dân không phải là “chủ
sở hữu mơ hồ, thấm chí không tồn tại”. Sở hữu toàn dân về đất đai là điều
kiện nền tảng để người lao động Việt Nam có cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích của
chính mình, chứ không phải “người nông dân lại không có quyền định đoạt
lợi ích từ mảnh đất của chính mình trên thực tế” như luận điệu của Lê Công
Định. Sở
hữu toàn dân tạo điều kiện để Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích của người
lao động tốt nhất, chứ không biến họ thành “các tá điền thời
phong kiến”. Những sai lầm và thiếu sót của cơ quan nhà nước thời gian
qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Những hạn chế,
tiêu cực đó một mặt, do sự hạn chế trong quản lý đất đai của Nhà nước, chính
sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp
luật về đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy,
năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai còn không ít hạn chế, yếu kém, một bộ
phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt khác, do nước
ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, đất đai có nguồn gốc rất
phức tạp.
Việc Lê Công Định đề xuất từ bỏ
khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai… sửa đổi Hiến pháp để tư hữu hóa các loại
đất dùng vào mục đích dân sinh và kinh tế không phải nhằm giúp cho xã hội Việt
Nam ổn định, giúp cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước thuận lợi hơn mà
chính là nhằm gây rối loạn lòng dân, gây xáo trộn trong xã hội, mục đích xa hơn
là nhằm phục vụ cho ý đồ của các “ông chủ” của hắn, đó là xóa bỏ thành quả cách
mạng của dân tộc ta, thành quả của công cuộc đổi mới, từ đó làm thay đổi bản chất
chế độ XHCN ở nước ta, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đưa nước ta
vào quỹ đạo của các nước tư bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét