Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta dù bận trăm công ngàn
việc nhưng Người vẫn luôn nhớ tới và giành nhiều tình cảm, quan tâm đến gia
đình Thương binh- Liệt sĩ. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 10-3-1946, Người
viết: Tôi kính cẩn cúi chào vong linh các
anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh
cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng...
Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã có biết bao người con ưu tú của
dân tộc hy sinh xương máu để bảo vệ nền Độc lập, Tự do của dân tộc. Cuối năm
1946, Bác ra thông báo: Tôi xin thay mặt đồng bào và Chính phủ gửi lời
chào thân ái đến các gia đình liệt sĩ và tôi nhận các con của liệt sĩ làm con
nuôi của tôi.
Tháng 6-1947,Hồ Chủ tịch
đã đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó để đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa đối
với các Thương binh - Liệt sĩ. Trong hội nghị trù bị tại xã Phú Minh, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên, Chính phủ đã chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm làm ngày
Thương binh - Liệt sĩ.
Báo “Vệ quốc quân” số
11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng bức thư của Người, trong đó có đoạn: Đang
khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ
tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập.
Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà
nay đã một số thành ra thương binh.
Người kêu gọi đồng bào phải biết ơn, nhường cơm xẻ áo, giúp đỡ những
người con anh dũng ấy. Người nói: Ngày
27-7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái, thương mến thương
binh. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lụa mà chị em phụ nữ biếu tôi, một
tháng lương của tôi và các nhân viên tại phủ Chủ tịch, cộng lại là 1.127 đồng.
Tiếp theo những năm sau đó, năm nào Bác cũng gửi một tháng lương,
quần áo, khăn mặt để tặng anh chị em thương binh. Người đề nghị chính quyền xã ở
các địa phương cần đón thương binh về nuôi, nên trích một phần đất công, hoặc
khai hoang, vận động đồng bào cày cấy, gặt hái hoa lợi để nuôi thương binh. Người
cũng động viên anh chị em thương binh tùy theo sức của mình mà làm những công
việc nhẹ nhàng như: may mặc, đan lát, hớt tóc, dạy bình dân học vụ, làm việc
văn phòng… để góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của bản thân mình. Bác luôn coi thương binh là những người tàn mà không phế.
Trong thư gửi Bộ trưởng Thương binh-Cựu binh ngày 27- 7- 1952, Người
nhắc nhở Phải coi việc giúp đỡ
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là nghĩa vụ chứ không phải là việc làm
phúc. Khi gửi thư cho đồng
bào chiến sĩ Nam Bộ, Nam Trung Bộ ngày 23- 9- 1949, Người viết: Hôm nay, cuộc kháng chiến oanh liệt
ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vừa đúng hai năm. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ,
và nhân dân toàn quốc nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã
hy sinh vì Tổ quốc. Tôi gửi lời an ủi tới những chiến sĩ và đồng bào bị thương,
bị địch giam cầm hoặc đang bị khổ sở nơi địch chiếm đóng…
Hồ Chủ tịchcũng tỏ lòng khen ngượi các y, bác sĩ, hộ lý đã hết
lòng cứu chữa thương binh, bệnh binh. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế, tháng
2- 1955, Người căn dặn: Cán bộ
y tế phải thương yêu săn sóc người bệnh như anh em của mình, coi họ đau đớn
cũng như mình đau đớn. Lương y phải như từ mẫu. Câu nói ấy rất đúng.
Sau khi thủ đô Hà Nội được giải phóng,
ngày 31-12-1954, Bác cùng các đồng chí Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đặt vòng hoa lên đài liệt sĩ (mới được dựng trên
khoảng đất rộng trong vườn hoa cạnh quảng trường Ba Đình, trước Phủ Chủ tịch).
Đứng trước đài liệt sĩ, hương trầm nghi ngút, Bác bùi ngùi tưởng nhớ các liệt
sĩ, không giữ được dòng nước mắt. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Hồ Chủ
tịch đọc điếu từ. Người viết: "Hỡi các liệt sĩ! trong lúc cả nước vui
mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân
tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá quốc kỳ. Tiếng thơm các liệt sĩ sẽ
muôn đời truyền với sử xanh. Một nén hương thanh. Vài lời an ủi. Anh linh
của các liệt sĩ bất diệt! Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!"
Tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chủ tịch đối với Thương
binh - Liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng là phải làm thường xuyên, lâu
dài chứ không phải nhất thời. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhiều địa phương
đã dấy lên phong trào chị em phụ nữ tình nguyện lấy thương binh để có điều kiện
chăm sóc tốt hơn. Đó là những nghĩa cử đẹp, cảm động rất đáng trân trọng.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, nhân dân ta càng có điều kiện để đền ơn đáp nghĩa đối với Thương binh
- Liệt sĩ và gia đình của họ. Các ngành, các cấp luôn ưu ái, “xã hội hoá” công
tác này. Nhiều địa phương đã có trường học giành riêng cho con em gia đình Thương
binh - Liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, nhằm đào tạo con cái họ
thành những cán bộ “nguồn” sau này. Tất cả những việc làm ấy thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc ta.
Ngày
Thương binh – Liệt sĩ đã đi vào lịch sử đất nước ta là ngày lễ lớn, hội tụ đầy
đủ ý nghĩa chính trị, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân
tộc ta, nhân dân ta. Tổ chức các hoạt động kỷ niệm là dịp để toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta tiếp tục ghi nhận, tôn vinh các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
Kỷ
niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2017) là dịp để cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân cả nước luôn dành những tình cảm thiêng liêng nhất để tưởng
nhớ, biết ơn những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh xương máu của mình vì sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để cho mỗi chúng ta
có được cuộc sống thanh bình và hạnh phúc ngày hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét