Cách mạng
Tháng Tám vừa thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao
lâu thì thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Kiên quyết bảo vệ
thành quả cách mạng, “không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng
để bảo vệ Tổ quốc. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt,
nhiều đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh, đổ máu trên các chiến trường. Với lòng tiếc
thương vô hạn, người sống tự nói với lòng mình: "Hãy sống sao cho xứng với
người đã khuất". Được sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, kế
thừa truyền thống “nhân ái,
thủy chung” của dân tộc,
nhân dân ta đã dành tình thương yêu, chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh chị em
thương binh, bệnh binh một cách tận tình, chu đáo.
Chiến
tranh nổ ra, nỗi đau bao trùm lên toàn dân tộc, nhiều gia đình mất đi cả
chồng và các con. Nhiều người vợ trẻ chỉ hưởng hạnh phúc vỏn vẹn trong một
ngày. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào,
Chính quyền Việt Nam đã xúc tiến vận động thành lập một tổ chức, lấy tên gọi là Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên
là Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa, Bình Trị Thiên, ở Hà
Nội và nhiều nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mời làm hội trưởng danh dự
của Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Khi cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, Nhân dân cả
nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, thương binh, liệt sĩ trở
thành vấn đề lớn của toàn xã hội.
Trước yêu cầu bức xúc đó,
ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc Lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật
và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí
quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu
nước của dân tộc.
Ngày 26/02/1947, Phòng
Thương binh (thuộc Chính trị
Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam) được
thành lập, đến đầu tháng 7/1947, Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban vận động tổ
chức “Ngày Thương binh toàn
quốc”. Cũng trong thời gian này, trong một cuộc họp tại xóm Bàn Cờ, xã
Hùng Sơn thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, theo đề nghị của đại diện Chính
trị Cục, Quân đội nhân dân Quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn
ngày 27/7 hằng năm làm “Ngày
Thương binh toàn quốc” là dịp
để đồng bào "tỏ lòng hiếu
nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh".
Đến tháng 7/1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của
đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc. Sau ngày
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 08/7/1975
của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27/7 hàng năm chính thức
trở thành “Ngày Thương binh -
Liệt sĩ” của cả nước.
Ngày nay, công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sĩ đã phát triển rộng khắp cả nước với nhiều chương trình như: xây nhà
tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, chăm sóc thương binh, chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ
già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng... Cả nước
đã xây dựng hàng chục nghìn công trình tình nghĩa với giá trị nhiều nghìn tỷ đồng,
với hơn 2.000 nhà bia tưởng niệm ghi tên liệt sĩ, gần 3.000 nghĩa trang liệt
sĩ, nhiều nghĩa trang liệt sĩ đã trở thành những công trình văn hóa - lịch sử.
Phát huy
truyền thống "Uống nước
nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", quan tâm chăm sóc gia đình Thương binh,
Liệt sĩ và người có công vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm được duy trì và
phát triển rộng khắp, thu hút sự tham gia đóng góp của các cấp, các ngành, các
đoàn thể và các tổ chức xã hội. 70 năm qua, hàng trăm văn bản, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, sắc lệnh, pháp lệnh, thông tư hướng dẫn của Nhà nước về công
tác thương binh, liệt sĩ, người có công với nước đã được ban hành là minh chứng
cho sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm, chủ trương của Đảng
và chính sách của Nhà nước đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có
công với cách mạng thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng
cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở vững chắc ổn định
chính trị - xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét