Khẳng định giá trị
lịch sử lớn lao của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân
chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính
quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, độc
lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của
nước ta".
Bước nhảy vọt kỳ diệu của dân tộc
ta trong Cách mạng Tháng Tám khởi nguồn từ tư duy cách mạng, sáng tạo Hồ Chí
Minh trong những năm 20 của thế kỷ XX: để cứu nước, để
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải sử dụng bạo lực cách mạng của quần
chúng, đề cao tính chủ động cách mạng của các dân tộc thuộc địa, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vượt
qua mọi gian khổ hy sinh, kiên quyết giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của
Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt
Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi".
Tổng
khởi nghĩa mùa Thu năm 1945 là một kỳ tích lịch sử mở đường cho những thắng lợi
vang dội của nhân dân ta qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp, chống
Mỹ; giương cao ngọn cờ tiền phong, lần lượt đánh sập chủ nghĩa thực dân cũ và
mới, vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội; đóng góp to lớn vào sự nghiệp hoà
bình và phát triển của nhân dân các dân tộc trên thế giới.
Đầu
những năm 40 của thế kỷ XX, từ Hội nghị Trung ương 6 đến Hội nghị Trung ương 8
(khoá I), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có một quyết định tài tình, sáng
tạo là kịp thời chuyển hướng tập trung sức lực của toàn Đảng và nhân dân
cả nước vào nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc. Trong Lời kêu gọi đồng bào tháng 6 - 1941, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn
kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước
sôi lửa bỏng"(1). Từ quyết định nhạy bén và đặc sắc đó và với sự chỉ đạo
rất sát sao trước mỗi biến cố lịch sử trong nước và thế giới thời kỳ này, Đảng
ta đã khơi dậy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì nghĩa lớn giải phóng Tổ
quốc, đưa phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân tiến những
bước lớn lao "một ngày bằng 20 năm". Theo sáng kiến của Bác Hồ, Mặt
trận Việt Minh (Hội Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập tại Pắc Bó (Cao
Bằng) ngày 19 - 5 - 1941 và theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, Mặt trận
Việt Minh được đặc biệt mở rộng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân vào các
hội cứu quốc. Thanh thế của Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh, rất mạnh
trên khắp nước, từ Bắc chí Nam, từ miền núi, đồng bằng đến ven biển.
Hoạt
động của Đảng và phong trào Việt Minh không chỉ dừng lại ở rừng núi, nông thôn,
mà phát triển sâu rộng cả ở thành thị, ngay cả các thành phố lớn như Hà Nội,
Sài Gòn, các trung tâm đầu não lớn của thực dân Pháp và phát-xít Nhật. Đâu đâu
cũng phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Việt Minh như
Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc,
Nhi đồng cứu quốc, Quân nhân cứu quốc... Trên cơ sở phong trào rộng khắp đó mà
trong những ngày Tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, nhân dân cả nước, nhờ đã
trải qua quá trình rèn luyện ý chí và tập dượt tổ chức đấu tranh trong phong
trào Việt Minh, đã nhất lượt vùng lên giành chính quyền khắp các thành phố, thị
xã, tỉnh lỵ, huyện lỵ trên mọi miền đất nước.
Trong
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, cuộc
khởi nghĩa của các tầng lớp nhân dân Hà Nội
có một vị trí đặc biệt quan trọng và
cũng là một biểu hiện rõ rệt về tinh thần dũng cảm, kiên quyết và tính sáng tạo
cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Có thể
khái quát những nét đặc sắc nhất: Một là,
Đảng bộ Hà Nội với số đảng viên rất ít so với dân cư đã huy động được phong
trào Việt Minh ngày càng rộng lớn, thu hút cả nông dân, công nhân, trí thức và
nhiều người yêu nước thuộc tầng lớp trên; cả phụ nữ và thanh niên, đặc biệt là
lực lượng thanh niên học sinh yêu nước vừa có nhiệt tình sôi nổi, vừa có hiểu
biết, nhiều sáng kiến. Hai là, với ý
thức chủ động cách mạng cao, trên cơ sở phong trào chính trị rộng lớn của nhân
dân , Thành uỷ Hà Nội đã tích cực lãnh đạo lực lượng vũ trang quần chúng nhằm
trước hết đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền
trên khắp các địa bàn, và khi thời cơ đến đảm nhiệm lực lượng nòng cốt cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của
nhân dân Hà Nội.
Từ
phong trào Thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu (Hà Nội) cuối năm 1944, Thành uỷ đã
chỉ đạo chọn lọc một số thanh niên nhiệt tình, hăng hái, gan dạ, thông minh, đủ
tin cậy để tổ chức ra đội vũ trang tuyên truyền của Hà Nội, mang tên Đội thanh niên tuyên truyền xung phong thành
Hoàng Diệu, sau đó phát triển thành Đoàn Thanh niên xung phong thành Hoàng
Diệu. Trong lời giới thiệu cuốn sách Đoàn
thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu, Thường vụ Thành uỷ Hà
Nội, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô đã khẳng định: "Được Đảng lãnh
đạo, Đoàn Thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu đã nắm vững thời
cơ cách mạng, dũng cảm, táo bạo, khôn khéo chuyển hướng vận động quần chúng từ
chỗ nhỏ, lẻ, từng người một sang tuyên truyền xung phong trước đông đảo quần
chúng ngay giữa hang ổ của địch, gây thanh thế vang đội cho Mặt trận Việt Minh,
làm cho kẻ thù hoang mang lo sợ, lực lượng cách mạng nhanh chóng phát triển.
Đoàn đã góp phần cùng các đoàn thể khác trong Mặt trận Việt Minh dấy lên cao
trào cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa ở Hà Nội, thúc đẩy điều kiện khởi nghĩa
chín muồi. Đặc biệt trong những ngày Tháng Tám lịch sử, mặc dù lực lượng nhỏ
bé, trang bị thô sơ, Đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ là một đơn vị vũ trang nòng
cốt cho cuộc khởi nghĩa của quần chúng cách mạng Hà Nội đi đến thắng lợi".
Ý
chí cách mạng kiên quyết, táo bạo và tính khoa học, sáng tạo của Đảng bộ và
nhân dân Hà Nội thể hiện đặc biệt rõ nét ở
sự lựa chọn phương thức và thời điểm khởi
nghĩa. Những ngày đầu Tháng Tám, cả nội thành và ngoại thành đều bừng bừng sục sôi khí thế
giục dã khởi nghĩa. Bác Hồ và Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, trực tiếp là Xứ uỷ Bắc Kỳ, đã đặc biệt quan tâm đến Hà Nội.
Ngay khi được tin phát-xít Nhật đầu hàng Đồng Minh, đêm 14 và ngày 15 -
8, Xứ uỷ Bắc Kỳ họp ở làng Vạn Phúc
(Hà Đông) quyết định xúc tiến khởi nghĩa từng phần ở những nơi có đủ điều kiện
tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời chủ trương thành lập Uỷ ban Quân sự
cách mạng Hà Nội để tập trung trí tuệ, sức lực toàn Đảng bộ và nhân dân, thường
trực chỉ đạo công việc khởi nghĩa ở Hà Nội.
Sáng
16 - 8, Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội họp phiên đầu tiên ở số nhà 101 phố
Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo) để nắm lại tình hình, bàn bạc về mọi công việc
chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa. Thách thức lớn nhất
đặt ra là lực lượng quân sự của phát-xít Nhật tập trung ở Hà Nội. Chính
phủ bù nhìn tuy vẫn ngoan cố bám giữ lấy "độc lập giả hiệu", dựa vào
quân Nhật và xin xỏ vũ khí của chúng hòng chống lại phong trào Việt Minh ở Hà
Nội; tuy nhiên, xét về thực lực, nếu tách
khỏi chỗ dựa là quân Nhật thì chúng không tránh khỏi sụp đổ nhanh chóng trước
bão táp cách mạng quá lớn của nhân dân Hà Nội.
Có
người nghĩ rằng, do Nhật đầu hàng Đồng Minh nên ta thu được thắng lợi dễ dàng.
Đó là cách tư duy quá giản đơn, không đúng với thực tế quá trình nỗ lực phấn
đấu vượt qua nhiều khó khăn phức tạp của Đảng và nhân dân ta ở Hà Nội và trong
cả nước. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi
nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn mọi người: "Cuộc tranh đấu của
chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được
giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn
đấu, nước ta mới được độc lập"(1). Trên thực tế, quân Nhật chiếm đóng Đông
Dương chủ yếu là Quân đoàn 38 với 6 vạn quân, riêng tại Hà Nội tập trung đến 1
vạn quân với trang bị vũ khí mạnh, chưa bị sứt mẻ gì đáng kể. Nhiều nơi trên
thế giới, mặc dù Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng, nhưng quân đội Nhật vẫn không
tự động buông súng. Liên quân Liên Xô và Mông Cổ phải kéo dài đến tận cuối
tháng 8 - 1945 mới tiêu diệt được đội quân Quan Đông. Ngày 1- 9, quân Nhật ở
Xin-ga-po vẫn còn nổ súng. Ngay ở Việt Nam, bộ đội Nam tiến đánh đồn Thái Nguyên còn gặp sức đề kháng ngoan cố của
Nhật. Ngày 19 - 8, sau khi ta tiến chiếm trại Bảo an binh, quân Nhật cho xe
tăng và bộ binh tiến ra phố Hàng Bài đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang
cách mạng. Song, với khí thế của dòng người đổ về ngày càng đông bao vây quanh
các đường phố sát trại Bảo an binh ngay trước nòng pháo xe tăng và các ụ súng
máy của quân Nhật, giương cao cả rừng cờ đỏ sao vàng, hô vang các khẩu hiệu
cách mạng, chúng ta đã khéo léo vô hiệu hoá khả năng can thiệp của quân Nhật.
Cuộc họp 16 - 8 của
Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội đã xác
định phương thức khởi nghĩa của Hà Nội là dựa vào lực lượng quần chúng cách
mạng đông đảo, có bộ phận vũ trang nhất định, để tiến hành mít-tinh, biểu tình,
cổ vũ quần chúng tổ chức thành đội ngũ xông lên giành những vị trí xung yếu mà
chính quyền và quân đội bù nhìn đang chiếm giữ. Đó là phương thức cơ bản, nhưng
cần xúc tiến chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức lực lượng chính trị và vũ trang cho
quần chúng; làm tốt công tác tuyên truyền đối với binh lính Nhật và theo dõi
sâu hơn nữa động thái của chúng.
Tổng hội công chức
ngụy được sự chỉ đạo của chính phủ bù nhìn tổ chức cuộc mít tinh vào chiều 17 -
8 để rêu rao nền "độc lập giả hiệu", lừa bịp hòng lôi kéo quần chúng
tách khỏi ảnh hưởng rộng lớn của phong trào Việt Minh. Uỷ ban Quân sự cách mạng
Hà Nội lập tức chủ trương kiên quyết phá cuộc mít-tinh đó và biến nó thành cuộc
biểu dương lực lượng to lớn của Việt Minh, động viên nhân dân tham gia khởi
nghĩa, khuếch trương khí thế cách mạng của quần chúng. Ngay sau khi ban tổ chức
cuộc mít-tinh của Tổng hội công chức ngụy tuyên bố lý do, một tổ ba người của
Đoàn thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu đã cướp diễn đàn,
giành mi-crô, giương cờ đỏ sao vàng, diễn
thuyết thông báo tin quân Nhật đầu hàng và hô hào nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt
Minh, tham gia Mặt trận, tích cực tham gia khởi nghĩa giành chính quyền
ở Hà Nội.
Sự
kiện diễn ra ngày 17 - 8 - 1945 là một cuộc biểu dương lực lượng quy mô lớn
toàn thành phố, khác về chất với các hoạt động vũ trang tuyên truyền trước đó.
Đây là một bước thể nghiệm cực kỳ quan trọng về sức mạnh áp đảo của lực lượng
chính trị quần chúng có các đội vũ trang cách mạng làm nòng cốt trước thái độ
"án binh bất động" của quân Nhật, phần vì hoang mang chán nản, phần
vì kinh ngạc trước khí thế cách mạng của nhân dân Hà Nội, cũng như sự rệu rã
của bọn phản động thân Nhật và chính quyền bù nhìn. Cuộc họp tối 17 - 8 của Uỷ
ban Quân sự cách mạng Hà Nội đưa ra quyết định cụ thể về phương thức khởi
nghĩa, kế hoạch khởi nghĩa, ngày giờ khởi nghĩa.
Với phương thức
khởi nghĩa cụ thể là dùng lực lượng chính
trị áp đảo của quần chúng cách mạng là chủ yếu, chĩa mũi nhọn phá sập chính
quyền bù nhìn và vận dụng sách lược mềm dẻo vô hiệu hoá quân đội Nhật, sáng
19 - 8, Mặt trận Việt Minh huy động khoảng 30 vạn người, hầu như toàn thể nhân
dân Hà Nội và nhân dân nhiều phủ, huyện lân cận tham gia vào cuộc mít-tinh ở
quảng trường Nhà hát lớn, rồi chuyển thành tuần hành thị uy có vũ trang tiến
chiếm hai mục tiêu chính là những cơ quan trọng yếu của chính quyền bù nhìn:
Phủ Khâm Sai - Toà Thị chính và trại Bảo an binh. Cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền đã thắng lợi trọn vẹn.
Thường vụ Trung
ương Đảng, khi từ Tân Trào về đến Hà Nội làm việc với Thành uỷ Hà Nội ngày 21 -
8, đã khẳng định tinh thần kiên quyết, dũng cảm và rất sáng tạo của cuộc Khởi
nghĩa tại Hà Nội, đồng thời chỉ thị cho các nơi theo gương Hà Nội đẩy mạnh cao
trào Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, coi đó là kinh nghiệm sáng tạo phù hợp
với tình hình mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét