Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

NVG40 - Đối ngoại quốc phòng - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa

 

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng  đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”. Để bảo vệ và phát huy thành quả đạt được, chúng ta cần phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, trong đó, đối ngoại quốc phòng được coi là kế sách “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” bằng biện pháp hòa bình.

Ngay từ khi mới ra đời năm 1930 và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã cho thấy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh, và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; có vị thế, uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu:

1- Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp;

2- Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao;

3- Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Theo đó, khát vọng phát triển đất nước của Việt Nam chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội.

Chính vì vậy, “bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”, nhất là trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, gắn chặt đối ngoại với quốc phòng, an ninh và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng.

Ủy viên Bộ chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ khai mạc Triển lãm quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022

 

Đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng việc bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng nhiều biện pháp khác nhau: một mặt, xây dựng quan hệ bang giao, hòa hiếu, hữu nghị với các nước láng giềng; mặt khác, chủ động xây dựng lực lượng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” và căn dặn toàn dân, toàn quân Việt Nam: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Kế thừa quan điểm, tư tưởng, bài học kinh nghiệm quý báu ấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là cần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, đồng thời triển khai toàn diện trên mọi lĩnh vực, phương diện của đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ, để thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nhiệm vụ là chúng ta phải “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ rõ: “nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế”. Điều này thể hiện sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Đảng ta, đồng thời cũng cho thấy vai trò của công tác đối ngoại và hoạt động đối ngoại quốc phòng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Trong đó, ngoại giao được coi là tuyến phòng thủ đầu tiên để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và quân đội được coi là lực lượng then chốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cụ thể:

Một là, sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam được thể hiện thông qua các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII). Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới về tư duy đối ngoại, tạo bước chuyển trong mọi hoạt động hợp tác quốc phòng, chuyển từ tình trạng “đối đầu” sang “đối thoại”, “thêm bạn, bớt thù”, “kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Đại hội VII đã đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đại hội VIII khẳng định “Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế”; “đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại” với phương châm “muốn là bạn của tất cả các nước”.

Năm 2003, Đảng ta đề ra Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thay đổi quan niệm bạn - thù sang linh hoạt xác định đối tác, đối tượng; lĩnh vực hợp tác quốc phòng đã được đề cập cụ thể hơn trong các văn kiện Đại hội. Đại hội IX xác định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng quan hệ đối tác và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong quan hệ quốc tế. Với tinh thần này, đối ngoại và hợp tác quốc phòng được triển khai mạnh mẽ tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, cả trên bình diện song phương và đa phương. Đại hội X khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đại hội XI bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đáng chú ý, lần đầu tiên trong các kỳ Đại hội của Đảng, công tác đối ngoại quốc phòng được khẳng định rõ ràng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI của Đảng đã xác định nhiệm vụ quan trọng “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”.

Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của Đại hội XI, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, trong đó nhấn mạnh, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là định hướng, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng biện pháp hòa bình. Thực hiện hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng cả song phương và đa phương đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc. Đây là định hướng cơ bản, tạo nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng lên tầm cao mới, đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội XII tiếp tục khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.

Đại hội XIII chỉ rõ, một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 là “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”. Để cụ thể hóa quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, “Về hội nhập quốc tế”, trong đó lần đầu tiên nêu rõ những định hướng hội nhập quốc phòng, gồm: “Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống” và “Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo”.

Có thể thấy, sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng đã được hoàn thiện sâu sắc hơn qua các kỳ Đại hội, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước qua từng thời kỳ. Đặc biệt, đối ngoại và hợp tác quốc phòng ngày càng được coi trọng và được coi là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Sự đổi mới về tư duy đối ngoại này của Đảng đã góp phần thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng ngày càng sâu rộng, hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện của Đảng và Nhà nước ta.

Hai là, sự nhất quán trong chủ trương, mục tiêu hợp tác quốc phòng. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2004 xác định, chủ trương đối ngoại quốc phòng là “thiết lập và phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau với lực lượng vũ trang các nước khác” Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 nhấn mạnh: “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước”; “sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển” trên tinh thần “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào” và “Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”. Với mong muốn “thêm bạn, bớt thù”, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác quốc phòng song phương và đa phương với các nước, tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi, sẵn sàng tham gia giải quyết những thách thức an ninh chung trên cơ sở tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, như Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 xác định: “Việt Nam xem xét tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh đa phương và cơ quan pháp lý quốc tế khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia”.

Có thể thấy, chủ trương đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Việt Nam đã thể hiện rõ bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam là yêu hòa bình, vì hòa bình, chiến đấu để bảo vệ hòa bình, mang tính chất tự vệ để bảo vệ chính nghĩa.

Với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, năng động, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng và chức năng nhiệm vụ đặc thù của lực lượng vũ trang, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là “góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới”. Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy Trung ương, xác định đối ngoại quốc phòng nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình; tạo điều kiện thuận lợi cho các lĩnh vực khác hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, đối ngoại quốc phòng còn nhằm mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới; thể hiện trách nhiệm trước các vấn đề của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa

Trong những năm qua, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh, có những bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động; góp phần nâng cao vị thế của đất nước, góp phần xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới. Đối ngoại quốc phòng đã trở thành một kênh quan trọng, góp phần củng cố và phát triển quan hệ của Việt Nam với các quốc gia, tổ chức, khu vực trên thế giới. Các hoạt động đối ngoại quốc phòng đã thúc đẩy củng cố lòng tin chiến lược, xây dựng quan hệ hữu nghị với các đối tác. Việt Nam đã tham gia nhiều cơ chế, diễn đàn quốc phòng, quân sự đa phương khu vực, quốc tế và có đóng góp tích cực, quan trọng vào các cơ chế, diễn đàn này. Qua đó, vị thế, uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày càng được nâng cao. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có đầy đủ năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, thiết lập Tùy viên quốc phòng tại hơn 30 nước và đã có hơn 40 nước thiết lập Tùy viên quốc phòng tại Việt Nam.

Trong khu vực, với việc chủ động, tích cực tham gia các cơ chế quốc phòng, quân sự của ASEAN ngay từ những ngày đầu thành lập, Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí, vai trò trong các hoạt động hợp tác quốc phòng, quân sự của ASEAN, đặc biệt trong cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Thành công nhất khi tham gia các cơ chế này là Việt Nam đã chuyển từ tham gia thuần túy sang chủ động làm chủ “cuộc chơi”, xây dựng và thiết kế “luật chơi”; trở thành một thành viên có tiếng nói quan trọng tại các diễn đàn. Các đề xuất, sáng kiến hợp tác của Việt Nam luôn được các nước đánh giá cao và đã chứng minh được hiệu quả khi triển khai trên thực tế. Việt Nam đã xây dựng được hình ảnh một quốc gia có trách nhiệm, chủ động, tích cực trong hợp tác quốc phòng, quân sự ASEAN.

Trên trường quốc tế, với việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Việt Nam đã và đang khẳng định được vị thế, uy tín, hình ảnh của một quốc gia có tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế. Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là một trong những trụ cột của đối ngoại quốc phòng, là điểm sáng trong quan hệ đa phương của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm gần đây. Đáng chú ý, để tạo hành lang pháp lý cho việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, ngày 13-11-2020, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 130/2020/QH14 về việc Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Điều này thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, khẳng định sự tham gia lâu dài của Việt Nam đối với sứ mệnh gìn giữ và kiến tạo hòa bình ở khu vực và trên thế giới, phù hợp với chủ trương đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Những chiến sĩ mũ nồi xanh của Việt Nam đã giành được sự ủng hộ của nhân dân các nước nơi mà chúng ta đặt chân tới và lan tỏa sự ủng hộ lòng yêu mến dân tộc Việt Nam tới nhân dân các nước khác. Đây là một tài sản tinh thần quý báu góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam từ sớm, từ xa.

Những kết quả đạt được trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng cùng với thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao không chỉ phát triển cả về bề rộng, mà còn phát triển cả về chiều sâu đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; là tiền đề quan trọng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa, tạo động lực mới để chúng ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Quán triệt sâu sắc các luận điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục và nỗ lực cố gắng hiện thực hóa mục tiêu “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”, góp phần thắng lợi vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực hiện định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”, đối ngoại quốc phòng Việt Nam sẽ tích cực đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế cả trên bình diện song phương và đa phương hiệu quả, thiết thực, góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam nói chung, quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế, tiếp tục lan tỏa hình ảnh và phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” ra toàn thế giới.

Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, thành tựu nổi bật nhất là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước”. Đối ngoại quốc phòng là bộ phận của đối ngoại quốc gia đã góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ trong thời bình, nỗ lực không để xảy ra xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, thuận lợi và thách thức, cơ hội và nguy cơ đan xen; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, ổn định của đất nước luôn bị đe dọa, nhiệm vụ đặt ra cho Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng nặng nề. Chính vì vậy, để thực hiện “kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình”, góp phần củng cố vững chắc “tuyến phòng thủ đầu tiên”, đối ngoại quốc phòng phải tiếp tục thực hiện phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”, không ngừng đổi mới, tham mưu hiệu quả cho Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực liên quan để có đối sách kịp thời, giành thắng lợi to lớn trên bàn đàm phán, chiến thắng trên mặt trận ngoại giao, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng để góp phần củng cố nội lực, tranh thủ nguồn lực và sự hỗ trợ từ bên ngoài về cả vật chất và tinh thần để xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo thế và lực, khẳng định vị thế trên trường quốc tế./.

 

NVG40 - Từ chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước đến thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

 

 Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban Đoàn kết công giáo, Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang thăm, chúc mừng Lễ phục sinh các chức sắc, chức việc tại Giáo xứ Tiên Lục (Lạng Giang).

Ở Việt Nam, từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng đã luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp từng giai đoạn cách mạng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong bối cảnh đất nước vừa mới giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quan điểm mang tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Việt Nam: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng, tự do và lương-giáo đoàn kết”, thể chế quan điểm đó, ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL, gồm 5 chương, 16 điều, văn bản pháp quy đầu tiên, quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo của người dân và trách nhiệm, nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo và tín đồ về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy.

Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý,... Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa…”.

Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước ta được thể hiện trên nguyên tắc Hiến định, được quy định trong các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến Hiến pháp sửa đổi năm 2013, thể hiện quan điểm xuyên suốt nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Đảng ta khẳng định: “Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng với dân tộc”, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc là yêu cầu quan trọng của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân ngay trong thực tiễn, trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từ 1990 đến nay, Đảng đã ban hành nhiều văn bản Chỉ thị, nghị quyết, như: Nghị quyết số 25/NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi rõ: “Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trong 20 năm qua, Nhà nước ta ban hành hơn 30 văn bản pháp quy quy định về các hoạt động, tín ngưỡng, tôn giáo, sửa đổi các điều Luật quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

Pháp lệnh 21/2004/PL-UBTVQH11 “Quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo”. Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 1/3/2005 “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan tôn giáo.

Hiến pháp năm 2013, điều 25 quy định:

(1) Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”.

(2) Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

(3) Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được cụ thể hóa trên nguyên tắc hiến định về các quan điểm của Đảng hiện thực trong thực tiễn, đạt mục tiêu cao nhất phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của mọi người.

Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII của Đảng ta khẳng định “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và Hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận…”.

Những chủ trương và chính sách, pháp luật nêu trên đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn công tác tín ngưỡng, tôn giáo đòi hỏi như điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo; điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc; điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo… và quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền, và quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, phường, thị trấn trong việc giải quyết kiến nghị của cá nhân, tổ chức tôn giáo và đặc biệt luật quy định rõ về thời hạn giải quyết, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, hạn chế và loại bỏ sự nhũng nhiễu, chậm trễ, tắc trách của công chức, trong việc thực thi công vụ và đã được quy định cụ thể trong pháp luật, tạo hành lang pháp lý, ổn định, thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người ngày càng tốt hơn.

Thực tế cũng cho thấy, chỉ tính trong gần 20 năm qua (2003-2022), số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự của các tôn giáo gia tăng đáng kể, phản ánh nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của người dân, khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.

Qua thống kê cho thấy, năm 2003 cả nước có 6 tôn giáo 15 tổ chức, với 17 triệu tín đồ, khoảng 20 nghìn cơ sở thờ tự; 34 nghìn chức sắc, 78 nghìn chức việc.

Đến năm 2022, Nhà nước ta đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với khoảng 27 triệu tín đồ, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc; hơn 29 nghìn cơ sở thờ tự…

Ngoài ra, hằng năm có hơn 8.000 lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo, với hàng vạn tín đồ tham gia và trong 10 năm thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm ha đất để xây dựng cơ sở thờ tự như Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền nam) xây dựng Viện thánh kinh thần học; tỉnh Đắk Lắk giao hơn 11.000m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột; thành phố Đà Nẵng giao hơn 9.000m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng; tỉnh Quảng trị giao thêm 15ha cho Giáo xứ La vang…

Chỉ tính năm 2022, chính quyền các cấp đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho 152 cơ sở thờ tự tôn giáo; cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho 183 điểm nhóm; cấp quyết định xuất bản cho 140 xuất bản phẩm, với 684.250 bản in.

Các hoạt động phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, chức việc; các hoạt động thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; sửa đổi hiến chương, điều lệ; đăng ký chương trình hoạt động hằng năm, theo đúng quy định của pháp luật; chấp thuận cho 646 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 3.238 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 424 chức việc các tôn giáo được thuyên chuyển…

Đó là bằng chứng sinh động trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là nguyên tắc nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam, vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo, thể hiện đầy đủ bản chất Nhà nước dân chủ, pháp quyền.

Thực tế, những chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo không những khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật mà còn được thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày, vì đây là một trong những quyền cơ bản của người dân.

Hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có xu hướng đồng hành cùng dân tộc, đồng thời là nhân tố bồi đắp, gìn giữ văn hóa Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú.

Việc thể chế chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đã khẳng định vai trò của Nhà nước pháp quyền luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, với mục tiêu “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống xã hội, tôn trọng và bảo đảm quyền công dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xác định là quyền cơ bản của mọi người “không ban ơn-xin cho”, các tôn giáo và những người có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không thiên vị một tôn giáo nào về mặt pháp luật, điều đó thể tính nghiêm túc trong việc chấp pháp.

Đảng, Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ mặc cảm, định kiến, không phân biệt đối xử về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tôn trọng ý kiến khác nhau, không trái với lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước. (Thứ trưởng Nội vụ Vũ Chiến Thắng)

Thể chế chính sách tôn giáo của Đảng, khẳng định rõ mối quan hệ của Nhà nước pháp quyền và tôn giáo là một thực tế khách quan, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, luôn tồn tại trong đời sống xã hội, do đó không thể tách rời sự hướng dẫn, quản lý của Nhà nước, nhằm bảo đảm các hoạt động hướng tới vì lợi ích thỏa mãn nhu cầu tinh thần lành mạnh, chính đáng, không kỳ thị vì lý do tôn giáo; hạn chế, xóa bỏ các hoạt động mê tín, lệch lạc ảnh hưởng giá trị đạo đức và thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc; tạo hành lang pháp lý ổn định để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo không tách rời pháp luật và quy định trách nhiệm của chính quyền trong việc hướng dẫn, giải quyết kiến nghị của tổ chức, cá nhân tôn giáo, bảo đảm sự minh bạch, công khai thực thi công vụ, công chức và quyền lực Nhà nước, được cá nhân, tổ chức tôn giáo giám sát khi thực hiện, đồng thời giúp cho công tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi.

Luật pháp đã quy định chính quyền các cấp có thời hạn trả lời các hồ sơ, kiến nghị của tổ chức, cá nhân tôn giáo theo cơ chế một cửa, công khai, minh bạch, tiết kiệm chi phí, giảm thời gian đi lại, hạn chế phiền hà…

Đảng, Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ mặc cảm, định kiến, không phân biệt đối xử về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tôn trọng ý kiến khác nhau, không trái với lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước.

Thực hiện các chủ trương của Đảng và sự hướng dẫn, quản lý của Nhà nước, hoạt động của các tôn giáo đã có nhiều đóng góp tích cực trong đời sống xã hội, vận động đồng bào có đạo chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống 'tốt đời đẹp đạo', đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và Hiến chương điều lệ được nhà nước công nhận”.

Theo thống kê cho thấy, trong 3 năm qua (2018-2020), Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức 148 hội nghị tuyên truyền phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/NĐ-CP, quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cho cán bộ trong hệ thống chính trị với 26.278 lượt người tham gia; 132 hội nghị cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành với 27.793 lượt người tham gia; tích cực chủ động phối hợp các bộ, ngành chức năng Trung ương đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về tôn giáo.

Các tôn giáo đều xây dựng đường hướng hành đạo, gắn bó với dân tộc như: “Hộ quốc an dân” của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo “Sống phúc âm phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc” của Tin lành; hoặc “ Nước vinh đạo sáng” của Cao Đài,.... Những đường hướng này phù hợp giáo lý, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Trong những năm qua, bằng các hoạt động giao lưu với các tổ chức tôn giáo đồng đạo trên thế giới như trao đổi đoàn ra nước ngoài học tập, dự hội nghị, hội thảo, tham gia các diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực; đăng cai, phối hợp tổ chức các hội nghị, diễn đàn tôn giáo trong khuôn khổ Liên hợp quốc, ASEAN, quốc tế... đã góp phần tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy ngoại giao nhân dân.

Tại các diễn đàn song phương, đa phương các tổ chức tôn giáo Việt Nam đã thể hiện rõ tinh thần yêu chuộng hòa bình và lòng tự hào dân tộc, tích cực ủng hộ và đóng góp sáng kiến vào các tuyên bố chung, góp phần xây dựng thế giới hòa bình, giảm xung đột, bạo lực và chiến tranh vì lý do tôn giáo, sắc tộc.

Vận động các tôn giáo đồng đạo trên thế giới ủng hộ Việt Nam xây dựng phát triển đất nước, khẳng định truyền thống đoàn kết, yêu nước của đồng bào tôn giáo luôn được vun bồi, phát huy và tỏa sáng trong lòng dân tộc Việt Nam.

Các tổ chức tôn giáo đóng vai trò quan trọng góp phần đưa chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. (Thứ trưởng Nội vụ Vũ Chiến Thắng)

Nhiều hoạt động tôn giáo đã góp phần giới thiệu đất nước, hình ảnh con người Việt Nam như Giáo hội Tin lành đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành; giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới với đại biểu của hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Hội đồng giám mục châu Á; Giáo hội Phật giáo tổ chức Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc, với 570 đoàn quốc tế, 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ... những hoạt động nêu trên đã góp phần giới thiệu về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của Việt Nam đến với bạn thế giới khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quy tụ kiều bào có tín ngưỡng, tôn giáo trong nước và ngoài nước đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh phản bác thế lực, luận điệu xấu tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương chính sách tôn giáo của Việt Nam.

Các tổ chức tôn giáo đóng vai trò quan trọng góp phần đưa chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Thông qua các sinh hoạt tôn giáo, chức sắc, chức việc các tôn giáo đã hướng dẫn tín đồ cách làm giàu, vươn lên thoát nghèo, đời sống vật chất từng bước được cải thiện, nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường, chung sức đồng lòng cùng với Đảng, Nhà nước xây dựng quê hương, đất nước.

Từ năm 2004 đến nay, Hội đồng trị Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS vào chương trình hoạt động Phật sự.

Năm 2015, lãnh đạo của 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo tại Việt Nam đã cùng Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường ký kết Chương trình phối hợp bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (giai đoạn 2015-2020), các tôn giáo đã xây dựng được 1.014 mô hình về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu giảm nhẹ rủi ro thiên tai… phù hợp điều kiện cụ thể của từng tôn giáo, đem lại hiệu quả thiết thực.

Từ trong các phong trào thi đua yêu nước đó, đã xuất hiện ngày càng nhiều gương người tốt, việc tốt, tấm gương điển hình tiên tiến, xuất sắc trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và lan tỏa trong đời sống xã hội đã góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc, đạo đức truyền thống nhân văn của con người Việt Nam, góp phần ngăn ngừa suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, vô cảm.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tôn giáo vẫn còn tiềm ẩn phức tạp. Đó là: Thực tiễn cho thấy, với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, các tôn giáo trên thế giới gia tăng, thúc đẩy việc truyền giáo phát triển tín đồ sang các quốc gia khác nên các hoạt động tôn giáo không ngừng biến đổi tác động trực tiếp đến tình hình tôn giáo ở Việt Nam; thế lực thù địch bên ngoài vẫn âm mưu lợi dụng tôn giáo để gây rối an ninh trật tự, móc nối với số phần tử cực đoan trong tôn giáo, định kiến với Đảng, Nhà nước và chế độ xuyên tạc, chủ trương chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát tán trên không gian mạng, vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền là thiếu khách quan.

Có thể khẳng định, thành tựu về thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam ngày càng sôi động đã củng cố niềm tin của chức sắc, tôn giáo và đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước ta, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy dân chủ ở cơ sở, tạo không khí phấn khởi tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân nói chung và chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo nói riêng, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết thực hiện thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

NVG40 - QUAY LƯNG LẠI VỚI TỔ QUỐC LÀ QUAY LƯNG LẠI VỚI TẤT CẢ

 

Liên quan đến việc Đường Văn Thái xâm nhập trái phép vào Việt Nam, hôm qua ngày 17.04.2023, tôi đăng trên FB bài Trở về quê mẹ vẫn là giải pháp tối ưu nhất. Trong bài này, tôi muốn giải thích thêm tại sao ?

Trước tiên, tôi muốn nói rằng, „dứt áo ra đi“ và „quay lưng lại với Tổ quốc“ là những chủ đề mà tôi đã nghiên cứu thấu đáo gần ba thập kỷ qua. Là chuyên viên cao cấp của Cơ quan di trú và tị nạn liên bang thuộc Bộ nội vụ liên bang Đức, tôi đã trực tiếp phỏng vấn và quyết định về đơn xin tị nạn chính trị của hàng nghìn người, trong đó có cả nhiều người VN. Trong quãng thời gian đó, tôi luôn bận tâm với câu hỏi về động cơ mà họ từ bỏ quê cha đất tổ. Sau khi tôi quyết định cho họ ở lại Đức, một thời gian dài, tôi thường xuyên xem lại hồ sơ điện tử của cơ quan để xem số phận của họ ra sao ở nơi xứ người. Có những trường hợp, tôi vẫn còn nhớ rất rõ đến tận ngày hôm nay, thí dụ, trước khi Romania trở thành thành viên của NATO vào năm 2007, một vị thứ trưởng đã bỏ chạy sang Đức, xin sống lưu vong và tôi đã phỏng vấn ông trong 2 ngày. Một trường hợp khác, năm 2016, một vị Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của một quốc gia Ả Rập, hết nhiệm kỳ công tác đã không trở về quê và xin cư trú chính trị. Ông khóc khi trả lời câu hỏi của tôi và ông dành cho tôi sự kính trọng đặc biệt. Phần lớn người VN nộp đơn xin tị nạn vì động cơ kinh tế, một số rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay, họ thuộc giới văn nghệ sĩ, bỏ chạy vì động cơ chính trị, muốn chống phá Đảng & Nhà nước VN và họ trở thành kẻ thù của Tổ quốc. Qua thái độ của người nộp đơn xin tị nạn, một thời gian ngắn sau đó, các cơ quan của VN sẽ biết rõ, ai là người chạy ra nước ngoài vì muốn có một cuộc sống mưu sinh tốt đẹp hơn, ai là tay sai của các tổ chức thù địch với VN.

Với những kẻ thực sự quay lưng lại với chế độ do Đảng CSVN lãnh đạo, tương lai của họ rất mù mịt. Họ phải trả cái giá quá cao, không có cơ hội trở về thăm cố hương. Với tôi và đại đa số Việt kiều, nỗi nhớ quê day dứt luôn là gánh nặng trong tâm hồn trong những năm tháng không thể về quê, đó là quãng thời gian đi lại khó khăn và hoàn cảnh kinh tế không cho phép. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, dù có phải đi tù vài năm ở VN, với Đường Văn Thái, trở về quê mẹ vẫn là giải pháp tối ưu nhất. Ở quê nhà, anh ta vẫn còn cơ hội làm lại cuộc đời. Cuộc đời không sáng lạn của nhiều người ở phương Tây vì trước đây hoạt động cho Việt Tân phải là bài học xương máu cho anh ta. Ở phương Tây, những người đã từng làm tay sai cho Việt Tân, chỉ nhận được tài trợ của bọn chúng nếu còn làm được việc cho họ, còn không, „sống chết mặc bay“! Còn với các chính phủ bản địa, những người Việt đó là một gánh nặng cho xã hội.

Hôm 13.04.2023, tôi đăng trên FB bài Đất nước đi lên. Trong đó, tôi phê phán gay gắt một số người rời bỏ hàng ngũ của Đảng CSVN và biến thành „người bất đồng chính kiến“? Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, một người bạn tốt, một đồng đội cùng chung chiến hào (trong hàng ngũ Sư đoàn 325) trong những năm tháng ở chiến trường miền Nam đã chia sẻ lại bài này. Ở đó, Nguyễn Minh Tuấn Volga đã viết bình luận: „Em rất thích những bài viết của anh Hồ Ngọc Thắng nhưng em vẫn không hiểu tại sao mà anh lại không về VN làm việc mà làm việc cho Đức?“. Nhân đây tôi muốn trả lời câu hỏi, theo tôi, đây là câu hỏi chân thật:

Như tôi đã kể trong các bài báo mà tôi là tác giả được đăng trên Báo Nhân Dân đăng trong mục Bình luận, vì lý do gia đình tôi tôi xin Nhà nước VN sang Đức sinh sống, sau khi được phép tôi mới rời VN, thí dụ, nhân dịp 40 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Báo Nhân Dân đăng bài do chính tôi viết: Dù ở xa Tổ quốc vẫn luôn nhớ về ngày đất nước thống nhất. Hiện bài báo này vẫn còn được lưu giữ trên mạng internet (đường link ở cuối bài). Xin nói thêm, hồi đó, ai học xong mà ở lại, Nhà nước VN cho phép và yêu cầu trả tiền chi phí đào tạo. Cá nhân tôi lúc đó không phải trả khoản tiền đó, bởi vì tôi không ở lại mà về nước, một thời gian rồi mới xin đi.

Mấy năm qua, để xúc phạm tôi, vài người hỏi đểu tôi, Hồ Ngọc Thắng yêu nước tại sao không về nước làm việc mà lại sống ở nước ngoài ? Để đáp trả, tôi nói, sống ở Đức tôi làm được nhiều việc cho đất nước, có những việc tôi làm mà lính của cả một sư đoàn quân không thể làm nổi. Tất nhiên đó là lời nói quá phóng đại. Nhưng ở một chừng mực nào đó tôi có lý. Thực tế, mỗi khi tôi về thăm quê hương, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay chào đón tôi, cho thấy, sống ở nước ngoài, những người Việt chân chính như tôi, cũng có thể đóng góp một phần của mình vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Sống ở nước ngoài không có nghĩa là quay lưng lại với Tổ quốc. Đó là sự thật, sống ở Đức, nhưng tôi làm được nhiều việc có lợi hơn cho Nhà nước VN so với các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, tướng tá … đã và sẽ đi tù.

 

 

NVI39 - TỈNH TÁO TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ VỀ TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG.

 

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tình hình an ninh trên biển có tác động lớn đến phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường hòa bình của đất nước, là yếu tố quan trọng để đất nước phát triển bền vững. Trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp đòi hỏi phải tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh.

Hiện nay, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông hiện đang tồn tại bốn vấn đề lớn chưa được giải quyết triệt để đó là: Chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa năm nước sáu bên; phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Có thể thấy rằng, trên bình diện quốc tế, Mỹ là quốc gia lên tiếng nhiều nhất trước các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Từ đó nhiều bài viết trên báo chí nước ngoài và một phần dư luận trong nước cho rằng Mỹ đang giúp Việt Nam trước các hành động xâm phạm; Việt Nam cần phải xích lại với Mỹ, dựa vào Mỹ để bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều bài viết của các thế lực thù địch trên các trang mạng xã hội nhằm khơi nguồn, châm ngòi cho vấn đề này với nhiều luận điệu khác nhau. Ngày 08/4/2023, trên trang blog Đối Thoại tán phát bài “Tàu dân quân biển Trung Quốc tràn ngập trên Biển Đông”; ngày 09/4/2023, trên trang blog Đối Thoại, đối tượng Nguyễn Huỳnh tán phát bài “Vì lợi ích chung, Việt Nam luôn muốn bắt tay với người Mỹ”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; đưa ra “dự báo” tình hình trên Biển Đông gây hoang mang trong dư luận; kêu gọi Việt Nam cần phải thay đổi chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế trong thời gian tới.

Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rằng lợi ích của Mỹ và các nước gắn chặt với tự do hàng hải, tự do hàng không trên biển Đông và con đường vận tải quan trọng hàng đầu trên thế giới này. Trung Quốc hiện nay đang cố tình khẳng định đường 9 đoạn phi lý, coi 80% diện tích Biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc, lấn sâu vào các vùng nước thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của không chỉ của Việt Nam mà còn của nhiều nước láng giềng khác, thách thức chủ quyền và an ninh của các nước trong và ngoài khu vực; đe doạ quyền tự do đi lại của tàu bè và máy bay của tất cả các nước qua khu vực này. Điều này đã bất chấp Công ước Liên hợp quốc về biển (UNCLOS 1982) mà Trung Quốc đã tham gia. Điều này không những đe doạ tự do hàng hải mà còn thể hiện sự áp đặt nước lớn đối với các nước láng giềng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở mà Mỹ và các nước đồng minh đang triển khai. Đó là lý do vì sao Mỹ liên tục tỏ thái độ phản đối đối với hành động của Trung Quốc.

Tất nhiên, việc Mỹ lên tiếng về các hành động khiêu khích của phía Trung Quốc là điều đáng hoan nghênh, thể hiện sự phản đối của cộng đồng quốc tế đối với các hành động của Trung Quốc và càng thể hiện tính chính nghĩa, tuân thủ pháp luật quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, việc ảo tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo thì lại là hoàn toàn ảo tưởng, thậm chí không khác gì “đuổi cọp cửa trước, rước beo cửa sau”. Và lịch sử đã chứng minh điều này. Sau Tuyên bố Thượng Hải năm 1972, Mỹ - mặc dù là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa nhưng đã bỏ mặc Trung Quốc chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Mặc dù quân đội Mỹ lúc đó vẫn hiện diện tại miền Nam, Hạm đội 7 vẫn nằm trong khu vực biển Đông, nhưng hải quân Mỹ đã “bỏ rơi” quân đội Việt Nam Cộng hòa, để quân đội Trung Quốc yếu hơn nhiều về sức mạnh quân sự, chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/2/1974. Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng “con bài Việt Nam” để ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung – Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Bù lại, phía Mỹ, chính quyền của Tổng thống Nixon có thể cứu vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Do vậy, chính quyền Nixon đã không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu cứu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược. 

 

Thực tế, từ trước đến nay, Mỹ chưa bao giờ “ngả” về phía Việt Nam. Hãy để ý, trong tất cả các lần Bộ Ngoại giao Mỹ phát biểu trước giới truyền thông, hay kể cả trong các tài liệu nghiên cứu công khai thì Mỹ chưa bao khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. Chưa bao giờ Mỹ có một tuyên bố chính thức khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Và phải chú ý rằng, mặc dù Mỹ đưa ra những bằng chứng, luận điểm để bác bỏ chủ quyền phi pháp của Trung Quốc, nhưng họ cũng bác luôn cả chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.

Mỹ nhấn mạnh cụm từ “không thuộc chủ quyền hợp pháp của bất kỳ quốc gia nào” là bởi vì họ muốn tất cả các hải đảo chiến lược ở Hoàng Sa, Trường Sa đều trở thành lãnh thổ chung của quốc tế. Chỉ như thế, Mỹ mới danh chính ngôn thuận mở rộng được sức ảnh hưởng của mình trên Biển Đông, chiếm giữ các hải đảo một khi có cơ hội mà không cần tới sự đồng ý của bất kỳ nước nào.

Bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn là sự nghiệp thiêng liêng của chúng ta. Là người Việt Nam, chúng ta cần phải ý thức được một điều là không nên dựa dẫm vào bất kỳ ai hay bất kỳ quốc gia nào, nhất là trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì luôn thể hiện tính nhất quán và xuyên suốt đó là yêu cầu tuân thủ nghiêm chỉnh và đầy đủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Thông qua đàm phán, thương lượng, kể cả song phương và đa phương; phản đối mọi hành vi áp đặt và thay đổi hiện trạng, những hành động gây sức ép và cản trở việc Việt Nam thực hiện quyền thăm dò và khai thác tài nguyên, kể cả việc hợp tác với các đối tác quốc tế trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Qua đó bảo vệ lợi ích chung là hoà bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông và khu vực, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. 

NVI39 - Phản bác luận điệu xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 

Hiện nay, các thế lực thù địch luôn tuyên truyền luận điệu: "Chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử", "Chủ nghĩa xã hội đã cáo chung","Chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng không thực hiện được". Đặc biệt, từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chúng cho rằng: "Việt Nam lựa chọn và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, đi theo vết xe đổ của Liên Xô"... và còn kêu gọi Đảng ta từ bỏ con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì trái với quy luật phát triển của xã hội loài người, là ảo tưởng và yêu cầu đất nước phải phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Thực chất của những luận điệu sai trái trên đã bộc lộ mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, vì những lý do sau:

Trước hết, chủ nghĩa xã hội không phải là ảo tưởng mà là một chế độ tốt đẹp, là khát vọng không chỉ của Nhân dân Việt Nam mà còn của Nhân dân thế giới, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. CNXH hiện thực ra đời sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã trở thành động lực to lớn thúc đẩy các dân tộc, các quốc gia làm cách mạng, đánh đổ áp bức bóc lột, giành độc lập dân tộc và đi lên CNXH. Những thành tựu vĩ đại đó là một trong những nguyên nhân buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại phải tìm cách điều chỉnh chế độ sở hữu, thực hiện an sinh xã hội để tiếp tục tồn tại. Từ sau năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực không còn tồn tại như một hệ thống, nhưng sức sống và giá trị thời đại của nó vẫn tiếp tục được khẳng định trong sự nghiệp đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba. Mặc dù con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn khó khăn, song theo quy luật tất yếu, loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Hai là, Việt Nam kiên định con đường đi lên CNXH là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta, Nhân dân ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó không phải là sai lầm, "đi theo vết xe đổ của Liên Xô" như các thế lực thù địch truyên truyền. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình đã lạc hậu, không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một mục tiêu, một chế độ xã hội tốt đẹp mà Nhân dân hướng tới. Sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã chứng minh rằng chủ nghĩa xã hội vẫn là một xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử nhân loại.

Ba là, thực tế Việt Nam cho thấy: trước đổi mới (1986) nước ta là nước nghèo, bị chiến tranh tán phá nặng nề, kinh tế chậm phát triển. Nhờ kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế nước ta đã phát triển liên tục trong hơn 35 năm qua với tốc độ trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP năm 2020 đạt 342,7 tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD, ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Đời sống văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội đều có bước phát triển đáng kể. Trong bối cảnh đại dịch Covid - 19 gây những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam vẫn nỗ lực vươn lên, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đó là hiện thực sinh động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta phải có cách nhìn nhận đúng đắn, cảnh giác trước những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, quyết tâm cùng nhau xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và toàn thể Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

NVH40 - Nhận diện, phê phán quan điểm cổ xúy “xã hội dân sự”

 

Ý đồ của những đối tượng cổ xúy “xã hội dân sự” cũng không ngoài mục đích làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ đó loại bỏ vị trí, vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng lái đất nước Việt Nam đi theo con đường khác, xa lạ, đối nghịch với con đường cách mạng XHCN.

ÂM MƯU TINH VI, XẢO QUYỆT

Khái niệm “xã hội dân sự” (civil society) được hiểu là không gian xã hội công cộng nằm ngoài khu vực nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các thiết chế và thể chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...

Tuy nhiên, bản thân “xã hội dân sự” cũng tiềm ẩn những rủi ro, nếu không nhận diện đúng, không quản lý đầy đủ sẽ dễ bị lợi dụng, trở thành công cụ chính trị để cho những phần tử cơ hội, phản động gây ra những bất ổn chính trị. Những kẻ cố tình cổ xúy “xã hội dân sự” thực chất là lợi dụng các hội, nhóm, diễn đàn... để phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây áp dụng vào Việt Nam, từng bước chuẩn bị lực lượng để tiến hành các cuộc “cách mạng màu”, chính trị hóa các tổ chức này trở thành lực lượng đối lập, cạnh tranh trực tiếp với vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp “bất bạo động”, “phi vũ trang”.

Ý đồ của những đối tượng cổ xúy “xã hội dân sự” nhằm làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó loại bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng lái đất nước Việt Nam đi theo con đường khác, xa lạ, đối nghịch với con đường cách mạng XHCN.

Để đạt được mục tiêu này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức tuyên truyền những luận điệu sai trái, thù địch nhằm phủ định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phủ định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng; đòi tư nhân hóa hoạt động báo chí, xuất bản... Bên cạnh đó, chúng tích cực tuyên truyền, cường điệu hóa vai trò của các tổ chức “xã hội dân sự” là hiện thân của tự do, dân chủ; xuất bản, lưu hành bất hợp pháp các bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã hội dân sự” kiểu phương Tây; hô hào và tìm cách tác động áp dụng mô hình này vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên... từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta trong tương lai.

Các thế lực thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người bất đồng chính kiến trong nước, những người bất mãn trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư... hoạt động theo khuynh hướng độc lập, hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây. Thời gian qua, các tổ chức phản động lưu vong như: “Chính phủ Việt Nam tự do”; “Việt Nam canh tân cách mạng Đảng”; “Đảng nhân dân hành động”; “Đảng dân chủ nhân dân”; “Đảng vì dân”; “Tập hợp dân chủ đa nguyên”; “Hội đồng dân quân cứu quốc”... liên tục chỉ đạo, tài trợ, cung cấp phương tiện cho một số đối tượng chống đối trong nước tiến hành hoạt động chống phá như: Khiếu kiện đông người, vượt cấp, đình công, biểu tình, qua đó tạo thành các điểm nóng về an ninh trật tự rồi tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền.

Ngoài ra, chúng lợi dụng triệt để internet và mạng xã hội để tuyên truyền, liên tục tổ chức các cuộc “phỏng vấn”, “hội thảo”, “hội luận” nhằm vào các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, các phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo bàn về chủ đề “tổng nổi dậy”, “biểu tình” và “quyền thành lập tổ chức chính trị đối lập”; tập trung tuyên truyền đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, “phi chính hóa” lực lượng vũ trang; kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tạo tâm lý hoài nghi trong quần chúng nhân dân về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

ĐỀ CAO CẢNH GIÁC VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU CỔ XÚY "XÃ HỘI DÂN SỰ"

Thực tiễn tại Liên Xô từ những năm 80 của thế kỷ 20 đã hình thành các công đoàn, tổ chức hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức xã hội dân sự” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Đến cuối thập niên 1980, nhiều tổ chức “xã hội dân sự” nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô; nhiều cơ quan xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của Liên Xô.

Ở Việt Nam, các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã tiếp tay, nuôi dưỡng các tổ chức phi chính phủ bằng những khoản viện trợ, tài trợ để giương cao khẩu hiệu “dân chủ, tự do, nhân quyền”, lợi dụng mâu thuẫn xã hội, kích động, xúi giục, lừa dối và lôi kéo đông đảo người dân tham gia các hoạt động biểu tình, khiếu kiện đông người, tạo ra những điểm nóng chính trị-xã hội. Thực tế thời gian qua, chúng đã thành lập các tổ chức “xã hội dân sự” với tên gọi, khẩu hiệu dễ gây ấn tượng với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như: “Diễn đàn xã hội dân sự”; “hội tù nhân lương tâm”; “hội phụ nữ nhân quyền”; “hội bầu bí tương thân”; “hội nhà báo độc lập”; “hội anh em dân chủ”...

Trước hành động cổ xúy “xã hội dân sự” hiện nay của một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, chúng ta cần chủ động nhận diện, đấu tranh, phản bác và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Trước hết, các cấp ủy đảng và chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nhận thức đầy đủ về “xã hội dân sự” và có cách ứng xử phù hợp với các thế lực có yêu sách đòi hình thành và phát triển “xã hội dân sự” theo kiểu xã hội phương Tây; thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với những quan điểm khuyến khích, cổ vũ “xã hội dân sự” một cách mù quáng, bất chấp những hệ lụy, với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị - xã hội đối lập ở nước ta.

Các cơ quan chức năng, các cơ quan nghiên cứu kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của “xã hội dân sự” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội; thúc đẩy phát triển các tổ chức này phù hợp với luật pháp, điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất chế độ XHCN.

Cùng với đó, các cơ quan, mặt trận, đoàn thể, các ngành, các cấp tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn cảnh giác, ngăn chặn kịp thời không để du nhập, áp đặt hình thành mô hình “xã hội dân sự” theo kiểu xã hội phương Tây không phù hợp với điều kiện đất nước; không để các thế lực nước ngoài chi phối các tổ chức xã hội ở nước ta. Bảo đảm sự hình thành, hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội thực sự xuất phát từ nhu cầu thiết thực, hợp pháp của nhân dân và được định hướng, tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

“Xã hội dân sự” hiện nay là vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận thức đúng đắn, hành động cẩn trọng, bảo đảm cơ sở chính trị, pháp lý rõ ràng, không để các tổ chức “xã hội dân sự” phát triển một cách tự phát; nâng cao cảnh giác và chủ động phòng ngừa, làm thất bại mọi âm mưu của thế lực thù địch cổ xúy “xã hội dân sự” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên để bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước

 

NVH40 - Tỉnh táo, nhận diện đúng các luận điệu xuyên tạc về đổi mới chính trị - xã hội ở Việt Nam

 

Hơn 36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...

Thủ đoạn tinh vi, khó lường

Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền...". 

Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị-xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị-xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.

Thực tế sinh động, minh chứng thuyết phục

Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị-xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(1). Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(2) đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.

Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị-xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua.


NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...