Việt Nam
có hơn 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Luật Biển Việt Nam được kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua
ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa…thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo
trong khu vực và trên biển Đông đã, đang và sẽ diễn ra gay gắt; đồng thời, đây
cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn…Trong số các chủ thể
tranh chấp ở biển Đông, Trung Quốc là quốc gia có tham vọng lớn nhất. Tham vọng
đó đã được các nhà lãnh đạo các thế hệ khác nhau từ Mao Trạch Đông đến nay, bằng
những biện pháp và phương thức khác nhau thực hiện. Từ hoàn thiện văn bản quy
phạm pháp luật, thành lập các đơn vị hành chính đến khẳng định trên thực địa,
nhằm từng bước kiểm soát, khống chế tiến đến độc chiếm biển Đông, lấy biển Đông
làm bàn đạp tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…Trước tình hình đó đã đặt
ra cho Việt
Nam những vấn đề như sau: một mặt, cần khai thác các chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng
minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa; nhưng mặt khác, cũng cần phải đấu tranh phản bác lại những
quan điểm sai trái của phía Trung Quốc, kể cả quan điểm chính thức và quan điểm
của học giả.
Biển đảo Việt Nam là
một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông
truyền lại. Chúng ta phải ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác
Hồ năm xưa đã dặn “các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ nước”. “Lãnh thổ Việt Nam là một khối thống nhất và toàn vẹn bao gồm
vùng đất, vùng biển và vùng trời. Nước ta có đường bờ biển dài 3260 km, cong
hình chữ S, chạy từ thành phố Móng Cái (Quảng Ninh) ở phía Bắc đến thành phố Hà
Tiên (Kiên Giang) ở phía Tây Nam… Nước ta có hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn
là các đảo ven bờ và có hai quần đảo ở ngoài khơi xa trên biển Đông là quần đảo
Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) và quần đảo Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh
Hòa)… Biển Đông đối với nước ta là một hướng chiến lược quan trọng trong công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. Các đảo và quần đảo tạo
thành hệ thống tiền tiêu bảo vệ đất liền, hệ thống căn cứ để nước ta tiến ra
biển và đại dương trong thời đại mới, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi vùng
biển, hải đảo, thềm lục địa.
Biển Đông được coi là
1 trong 5 bồn trũng chứa nhiều dầu khí lớn nhất thế giới. Kinh tế ven biển và
thuần biển đã có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của cả nước, và cùng với đó,
thu nhập bình quân của người dân ven biển đang tăng nhanh. Vùng biển của Việt
Nam được phê chuẩn theo công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển năm 1982 và
vào năm 1994. Theo đó, một quốc gia ven biển sẽ có 5 vùng biển là: nội thủy,
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Căn
cứ để tính chiều rộng của các vùng biển của một quốc gia chính là đường cơ sở
và đơn vị đo chính là hải lí. Một hải lí bằng 1852m.
Nước Việt Nam nằm bên
bờ phía tây của Biển Đông. Bao đời nay, biển và hải đảo đã gắn bó chặt chẽ với
các hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc ta. Ngay từ thời Hùng Vương, tổ
tiên chúng ta đã biết khai thác biển, lúc đầu là đánh bắt các hải sản ven bờ,
sau tiến ra các đảo và vùng biển xa hơn. Câu chuyện về chàng Mai An Tiêm bị vua
cha hiểu lầm đuổi ra đảo hoang đã cùng vợ bỏ sức khai phá và trồng dưa hấu trên
hòn đảo gần bờ biển vùng Nga Sơn (Thanh Hóa) đã phần nào phản ánh: Từ xa xưa,
người Việt đã tới sinh sống và sản xuất trên các hải đảo ven bờ. Không những
vậy, cư dân Lạc Việt thời đó cũng đã có khả năng vượt biển tới những vùng đất
xa, bằng chứng là những chiếc thuyền vũ trang có chở nhiều đồ đồng quý giá như
trống, bình đồng… mà người ta thấy được ở hầu khắp các đảo lớn thuộc Inđônêxia
và ven bờ biển Malaixia, Thái Lan.
Các triều đại phong
kiến Việt Nam sau này đều thấy rõ vai trò của biển đối với sự phát triển kinh
tế và an ninh quốc phòng.Trên nhiều tấm bản đồ cổ của nước ta cũng như của nước
ngoài đều thể hiện chủ quyền biển đảo Việt Nam. Bộ Hồng Đức bản đồ gồm bản đồ
cả nước và các địa phương, trong đó có vùng biển, đảo đã ghi lại khá toàn diện
hình ảnh của quốc gia Đại Việt ở cuối thế kỉ 14. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Đầu thì trên những bản đồ cổ của Tây Phương và cả những bản đồ từ thế kỉ
15 của Trung Quốc đều dùng địa danh biển Giao Chỉ (tức là biển của Việt Nam) để
chỉ vùng biển ở phía đông nước ta. Giao Chỉ là tên gọi do các triều đại phong kiến
Trung Quốc dùng để chỉ người và nước Việt Nam xưa. Giao Chỉ là một trong 15 bộ
của nước Văn Lang. Các triều đại phong kiến Trung Quốc sau này nhiều khi vẫn
dùng tên Giao Chỉ cũng như tên An Nam để chỉ quốc gia và nhân dân Đại Việt.
Sang thế kỉ XIX hoạt động
chủ quyền của nhà Nguyễn được tổ chức chặt chẽ, thường xuyên và phong phú hơn,
nhất là dưới các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Nhà Nguyễn nối tiếp
chúa Nguyễn và vương triều Tây Sơn đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và
Trường Sa dưới nhiều hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra
kiểm soát, khai thác các hóa vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị
nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu
dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết… Lực lượng ra làm
nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội
Thủy quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu (chủ yếu ở hai
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định). Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa, Trường Sa đều phải có
quyết định của nhà nước dưới hình thức “tờ sai để thi hành công vụ” và nhiều
khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm
dừng lại vì bão gió. Tập tài liệu của Trung Quốc Ngũ quốc Nam hải chư đảo sử liệu
hội biên do Hàn Chấn Hoa chủ biên, trang 115 thiên thứ nhất, cũng ghi chép dấu
vết trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm) ở Hoàng Sa có miếu gọi là Hoàng Sa tự (Hoàng
Sa tự được vua Minh Mạng triều Nguyễn cho xây dựng).
Từ khi chiếm lĩnh được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ông cha ta đã cho người ra cắm mốc chủ quyền. Khi chính quyền Pháp bảo hộ, họ cũng đã cắm bia chủ quyền ghi “Cộng hòa Pháp- Đế quốc An Nam quần đảo Hoàng Sa”. Vào năm 1956, khi người Pháp rút, bàn giao 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa.Như vậy, qua các căn cứ trên ,chúng ta hiểu rằng Hoàng Sa,Trường Sa là của Việt Nam.Bất kì sự xâm phạm của quốc gia nào vào vùng biển thuộc chủ quyền của chúng ta là đã đi ngược Công ước về luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc.
Trong thời gian
qua,Trung Quốc đã nhiều lần tái diễn hành vi xâm phạm vùng biển Việt Nam: Tập
trận ở vùng biển Hoàng Sa, tàu cá Trung Quốc, tàu dân quân biển, tàu khảo sát
Trung Quốc…đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Biển Đông của chúng ta
lại “nóng”lên trước các hoạt động của Trung Quốc. Trả lời câu hỏi của một số
phóng viên trong và ngoài nước liên quan đến diễn biến gần đây ở Biển Đông,
Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết: “Như đã nhiều
lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối
với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của công ước
của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và các nước ở Biển Đông đều là thành viên.
Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ
các quy định có liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam
nếu không được phép của Việt Nam đều vô giá trị, xâm phạm vùng biển Viện Nam,
vi phạm luật pháp quốc tế và công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Có thể khẳng định
rằng chủ trương nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng
các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển 1982 trước bất cứ hành vi nào xâm lược chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển, được xác định phù hợp
với công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Việt Nam hết sức coi trọng
hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thiện chí và sẵn sàng giải quyết các tranh chấp
bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trên cơ sở đó, trong thời gian qua, Việt
Nam đã triển khai đồng bộ các biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề, đấu
tranh yêu cầu tôn trọng vùng biển Việt Nam, các quyền và lợi ích hợp pháp của
Việt Nam trên vùng biển của mình, không có hành động làm phức tạp tình hình.
Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã và đang thực thi chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ
vùng biển Việt Nam”. Chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh để giữ vững chủ
quyền quốc gia của tổ quốc, không để bị động, bất ngờ, không để mất đảo, mất
dân, mất đất. Biển đảo là của tiền nhân để lại, một viên đá trên đảo, một ngụm
nước biển thuộc chủ quyền của nước mình cũng khống thể để mất đi.
Vì vậy chúng ta cần
có nhận thức đúng đắn về vị trí vai trò của biển, đảo, hiểu biết sâu sắc về
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc để tìm ra phương thức bảo vệ chủ
quyền một cách hữu hiệu; Xây dựng, củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
ý chí tự lập tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ tổ quốc; Tích cực học tập huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu nhận và hoàn thành các nhiệm vụ Quân đội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét