Hội nghị thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam ngày 03/02/1930 đánh dấu một mốc son lịch sử chói sáng của cách mạng
Việt Nam. Đảng ra đời đã kịp thời lãnh đạo cách mạng của dân tộc ta theo một
đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và
hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu
của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin dối với cách mạng
ViệtNam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng
đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh
dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Sự ra đời
của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên
tuổi của lãnh tụ Nguyễn Ái QuốcHồ Chí Minh.
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương
lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra
đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được
tinh trạng khủng hoàng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XX. mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất
nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và
sự đoàn kết. thông nhât cua toàn dân tộc cùng chung tư tương và hành động đó
tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng
là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suôt 88 năm qua và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng. xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tin của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao.
Trải qua 88 năm xây dựng và trưởng
thành, lấy chủ nghĩa Mảc-Lênỉn và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại. Đó
là:
Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xoá bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến,
mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo
vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Thứ
ba: Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước timg bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được
trong 88 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta
từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất
nước ta đã ra khỏi tinh trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá có quan hệ quốc tế rộng rãi. có vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng
nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp. Đó là:
Một là: Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng; tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo; kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật
thiết với Nhân dân; kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của Đảng; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế.
Hai là: Sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên
một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đây cũng là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn
đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên.
Ba là: Những truyền thống ấy có ý nghĩa dân tộc và ý
nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới
ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn
đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp
ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi thử thách, nối tiếp từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Những bài học kinh nghiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 88 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành:
Một là, nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Hai là, sự
nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Chính Nhân dân
là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Ba là, không
ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết. Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức
mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự
chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Một số kinh nghiệm trong
công tác xây dựng Đảng
Là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng
Việt Nam trong suốt 88 năm qua, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm
quý báu trong công tác xây dựng Đảng sau đây:
Thứ nhất: Thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn và không
ngừng nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Thứ Ba: Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đổi mới công tác xây dựng Đảng, phát huy dân
chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tập trung dân chủ và các nguyên tắc khác, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật.
Thứ tư: Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất trí tuệ và năng lực hoạt động
thực tiễn.
Thứ năm: Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng
Đảng.
Thứ sáu: Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Thứ bảy: Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức
lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Tích cực xây dựng Đảng ta
trong sạch, vững mạnh; xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh:
Những thắng lợi đạt được trong 88 năm qua kể từ ngày
có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục lãnh đạo đất nước ta tiến lên phía trước, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng đã không ngừng
tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức được đẩy mạnh; tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh; nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...
Công tác xây dựng Đảng được đặt ra trong nhiều Nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Sau thời gian triển khai thực hiện, các cấp uỷ đã quan
tâm phát hiện, ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm. Tinh thần tự phê bình và
phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã chuyển biến rõ nét. Tinh
thần, thái độ phục vụ Nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc
được giao được nâng lên. Ngày 30 tháng 10 năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội; đồng thời gắn
với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây là nội dung hết sức quan
trọng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu cao hơn
về rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên trong tình
hình mới.
Sự lãnh đạo tuyệt đối
trực tiếp về mọi mặt của Đảng – nhân tố quyết định chiến thắng của Quân đội ta:
Trung thành và vận dụng
đúng đắn, sáng tạo những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của
chủ nghĩa Mác – Lênin, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định phải thành
lập quân đội công nông và đặt quân đội công nông dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng,
tháng 3 – 1935, Đảng ta ra nghị quyết về tổ chức, lãnh đạo của Đảng trong đội
tự vệ công nông. Nghị quyết nêu rõ: Công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền
chỉ huy thống nhất của Trung ương Quân uỷ của Đảng Cộng sản. Tư tưởng này tiếp
tục được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện Đảng qua các kỳ đại hội và trở
thành nguyên tắc bất di, bất dịch trong quá trình Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng trở thành
nhân tố quyết định đối với sự trưởng thành, phát triển, chiến đấu và chiến
thắng của quân đội ta.
Khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Phải xây
dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm
đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn hoàn cảnh nào. Khi bàn về những
nhân tố làm nên sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội, Người khẳng định:
“Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây
dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. Đây là sự tổng kết lịch sử và là sự khái
quát, phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với công tác quân sự, quốc phòng; chỉ rõ quy luật vận động, phát triển của xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam – quân đội của dân, do dân, vì dân trong sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, được thể hiện sinh động trong thực tiễn
tổ chức, lãnh đạo của Đảng đối với quân đội hơn 70 năm qua. Đó là một chân lý
vì nó khẳng định rằng, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng luôn giữ
vững quyền độc tôn lãnh đạo quân đội, Đảng không nhường quyền, chia quyền lãnh
đạo của mình đối với quân đội cho bất cứ cá nhân, tổ chức, đảng phái chính trị
nào; luôn nhất quán đặt mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
lên trên hết.
Kể từ khi thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam, Đảng đã tổ chức chi bộ đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
đội quân chủ lực đầu tiên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vững mạnh toàn diện. Tùy thuộc vào hoàn
cảnh, tình hình cụ thể, Đảng đã điều chỉnh sách lược và sử dụng các giải pháp
phù hợp để xây dựng tổ chức, tập hợp lực lượng, quyết tâm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam; song về nguyên tắc, quyền lãnh đạo quân đội,
lãnh đạo lực lượng vũ trang cách mạng – công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng, Nhà
nước và nhân dân thì Đảng không thể và không bao giờ phân chia, nhân nhượng cho
bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc đảng phái chính trị nào. Trong những năm đầu tiên
của chính quyền cách mạng, trước sức ép của các thế lực phản động, để bảo vệ
Chính quyền nhân dân non trẻ, ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng tuyên bố “tự giải
tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng
trong thời kỳ đất nước đang diễn ra cuộc đấu tranh đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc vô cùng gay go, quyết liệt, vận mệnh của quốc gia dân tộc “ngàn
cân treo trên sợi tóc”. Ở trong tình thế ấy, Đảng vẫn kiên quyết giữ vững vai
trò lãnh đạo của mình đối với công cuộc kháng chiến, kiến quốc; giữ vững quyền
lãnh đạo của mình đối với quân đội và các lực lượng vũ trang nhân dân.
Đảng ta luôn trung
thành và nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo các quy luật vận động, phát triển của xã
hội, các quy luật của chiến tranh để đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng
đắn, sáng tạo. Đảng trực tiếp xác định, đề ra đường lối quân sự, quốc phòng,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân nói chung và quân đội nhân dân nói riêng, theo lập
trường, quan điểm của giai cấp công nhân. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ quyết
định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của quân đội mà còn
quyết định các nguyên tắc tổ chức hoạt động, các mối quan hệ của quân đội đối
với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân. Đảng trực tiếp lãnh đạo xây dựng
và phát triển nền khoa học, công nghệ, nghệ thuật quân sự Việt Nam; lãnh đạo
xây dựng tổ chức biên chế, trang bị vũ khí, kỹ thuật và nuôi dưỡng bộ đội; lãnh
đạo công tác cán bộ và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong Quân
đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là toàn diện, bao
quát trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, các mặt công tác chính
trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật, các nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, lao động
sản xuất, làm nhiệm vụ quốc tế theo khả năng và điều kiện cho phép…
Đảng
trực tiếp giáo dục, rèn luyện, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh
thần của bộ đội. Thông qua cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng và tiến hành
công tác đảng, công tác chính trị, Đảng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
mình trên tất cả các lĩnh vực, các nhiệm vụ và mọi hoạt động của quân đội, bảo
đảm cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân,
kiên định lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, kiên quyết thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Nhà nước,
sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
vì hạnh phúc của nhân dân. Nhờ đó, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, quân
đội ta cũng đều phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tuân theo Hiến pháp, pháp luật
của Nhà nước, quyết tâm chiến đấu hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà
Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét