Ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn với những sự kiện trọng đại
trong tiến trình giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hòa bình,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, mà một minh chứng sinh động là Hiệp định
Paris (27/1/1973) - Hiệp định mang dấu ấn Hồ Chí Minh, thể hiện tầm vóc thời
đại của nền ngoại giao truyền thống Việt Nam.
1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta đã giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường, nhất là
sau khi quân dân miền Nam đánh bại cuộc phản công mùa khô thứ nhất (Đông
Xuân 1965-1966) và đang từng bước đánh thắng cuộc phản công mùa khô thứ hai
(Đông Xuân 1966-1967) cùng với việc miền Bắc đã bắn rơi 1620 máy bay Mỹ, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III, 1/1967) đã phân tích
và quyết định: "Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là
nhân tố chủ yếu quyết định giành thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho
thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội
nghị những cái mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh
ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà
trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch,
đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động".
2. Ngày 2/5/1968, Việt Nam đề nghị lấy Paris làm
địa điểm họp chính thức giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đồng thời cử Bộ trưởng Xuân Thủy
làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam DCCH tại cuộc đàm phán và
đề nghị phiên họp đầu tiên tổ chức vào ngày 10/5 hoặc vài ngày sau đó. Hoa Kỳ
đã chấp nhận đề nghị đó và cử Averell Harriman - một nhà ngoại giao nổi
tiếng của Mỹ làm Trưởng đoàn. Ngày 3/6/1968, đồng chí Lê Đức thọ tới Paris tham
gia đàm phán trực tiếp với tư cách là Cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính
phủ Việt Nam DCCH. Cuộc đàm phán Paris về vấn đề Việt Nam bắt đầu từ ngày
13/5/1968. Ngày 17/6/1968, hai bên bắt đầu có những cuộc gặp nhau ở cấp đoàn
viên và từ ngày 27/6/1968 là ở cấp phó trưởng đoàn… Trong khi đàm phán ở Paris
diễn ra thì tình hình chiến trường cũng không kém phần sôi động và quan hệ quốc
tế giữa các nước lớn, giữa hai phe cũng diễn ra rất phức tạp…
Luôn theo sát tình
hình, tháng 5/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho đồng
chí Xuân Thủy - Trưởng đoàn đám phán Paris khi về nước báo cáo tình hình:
"Tiến công ngoại giao là một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến
lược lúc này…; nắm vững thời cơ, phối hợp với tiến công quân sự và tiến công
chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng
sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một
giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta". Và Người đã một mặt,
khích lệ tinh thần đồng bào và chiến sĩ miền Nam phải kiên quyết "đánh cho
đến khi Mỹ nguỵ thất bại hoàn toàn"; mặt khác, đầy nhân ái và hết sức mềm
dẻo, Người bày tỏ rõ quan điểm là muốn có hoà bình, "Mỹ phải chấm dứt chiến
tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam" và Việt Nam
"sẵn sàng cho Mỹ rút quân có thể diện", trải thảm đỏ cho đế quốc Mỹ
rút quân về nước...
3. Những năm sau
đó, tiếp tục thực hiện theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên bàn
đàm phán hay bên lề Hội nghị Paris… cuộc đấu trí giữa các bên, đặc biệt là giữa
cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và trợ lý Tổng thống Mỹ Kissinger luôn quyết liệt.
Càng đi đến gần hồi kết, "kịch tính" của Hội nghị Paris càng căng
thẳng. Các cuộc đàm phán trong những năm 1969-1971 luôn có sự kết hợp giữa
công khai họp bốn bên với gặp riêng cấp cao Việt Nam - Hoa Kỳ. Việt Nam
chủ trương phối hợp đấu tranh ngoại giao với hoạt động quân sự, chính trị, làm
phá sản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", kéo Mỹ xuống thang
chiến tranh, đồng thời, đảm bảo cho quân dân miền Nam tiếp tục đánh, tiếp
tục nhận được sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế…
Tráo trở và lật
lọng với hy vọng "ép" ta, đêm 18/12/1972, Tổng thống Nixon ra lệnh
ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng và các địa phương lân cận bằng máy bay
F-111 và "pháo đài bay" B-52, với mục đích buộc Việt Nam phải chấp
nhận điều kiện của Mỹ tại đàm phán Paris. Tuy nhiên, "biết mở đầu
đúng" - phát động chiến tranh cứu nước, thì quân dân ta cũng biết
"chấm dứt chiến tranh một cách có lợi nhất". Cuộc đụng đầu lịch sử
trong 12 ngày đêm được ví là "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" đã
kết thúc bằng việc 34 "pháo đài bay B52" và nhiều máy bay chiến
đấu khác của Mỹ nổ tung trên bầu trời Hà Nội và các tỉnh miền Bắc. Chiến thắng
có tính quyết định nhất của quân dân Thủ đô đã buộc Tổng thống Nixon phải tuyên
bố ngừng ném bom từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị cho phía Mỹ gặp đoàn đại
biểu Việt Nam tại Paris để ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký
chính thức ngày 27/1/1973 (có hiệu lực từ ngày ký chính thức) giữa bốn Bộ
trưởng đại diện các Chính phủ tham dự Hội nghị tại Trung tâm các Hội nghị quốc
tế Clêbe (Paris).
45 năm sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, có thể nói rằng: Cội
nguồn thắng lợi của đàm phán Paris là tinh thần quyết chiến, quyết thắng, là ý
chí quật cường, không khoan nhượng, đấu tranh bền bỉ, bảo vệ chân lý,
"Không có gì quý hơn độc lập tự do" của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là thắng lợi
mang đậm dấu ấn của tinh thần và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh
"thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng; chiêng có to thì tiếng
mới lớn".
Cùng với thời
gian, bài học kinh nghiệm về ý chí và tinh thần đấu tranh kiên trì bảo vệ độc
lập, chủ quyền dân tộc; phát huy sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc và
quốc tế; kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự và ngoại giao tại Hội nghị
Paris năm nào vẫn còn mang hơi thở của thời đại, thiết thực và bổ ích. Việt Nam
đã lựa chọn, xác định rõ quan điểm độc lập, tự chủ trong hành trình đấu tranh
giải phóng đất nước; đã biết mở ra cuộc chiến tranh, tiến hành và từng bước
giành thắng lợi trong chiến tranh để rồi biết cách kết thúc
chiến tranh; biết đánh bằng quân sự, biết đánh bằng chính trị, biết đánh bằng
ngoại giao và phối hợp nhịp nhàng các mặt trận đó, vì vậy những kinh
nghiệm quý giá ấy có giá trị to lớn đối với Việt Nam và các quốc gia
trong bối cảnh cầu hóa và hội nhập quốc tế./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét