Hội nghị hai bên ở Pari sau
nhiều phiên họp trong năm 1968 vẫn không giải quyết được vấn đề cơ bản, nhưng
đã mở đầu cho một thời kỳ Việt Nam tiến công trực diện Mỹ về ngoại giao trên
bàn hội nghị. Trong quá trình đấu tranh đó, phái đoàn Việt Nam luôn khẳng định tính
chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam;
lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt
Nam, hành động phá hoại hiệp định Giơnevơ của Mỹ; đòi Mỹ rút quân và chư hầu ra
khỏi Việt Nam; chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt
Nam; từ bỏ ngụy quân Sài Gòn; đáp ứng lập trường của Việt Nam Dân chủ cộng hoà
và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Trước quan điểm đúng đắn, thái
độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam,cùng vớinhững thất bại nặng nề trên chiến
trường và tình hình nước Mỹ trước ngày bầu cử Tổng thống, ngày 1/11/1968, Giôn-
xơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt
Nam Dân chủ cộng hoà. Sau sự kiện này, cuộc đấu tranh giữa Việt Nam và Mỹ bắt
đầu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất tổ
chứcHội nghị Bốn bên bao gồm: Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hoà (chính quyền Sài Gòn).
Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4
bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên tại Pari. Lập trường bốn bên, mà
thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn
nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức
nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường
cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân
sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm
dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán
nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch
Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến
dịch tiến công Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8
Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ - nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước
làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta
trên bàn đàm phán.
Ngày 8-10-1972, phái đoàn Việt
Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình
ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được
các bên nhất trí nhưng đến ngày22-10-1972phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm18-12-1972, tổng thống Mỹ Nixon ra
lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong
12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng
việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay
trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất
bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua
không thể gượng nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại
Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết
đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận.
Cuối
cùng, ngày 22 - 1 - 1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe,đúng 12 giờ
30 phút (giờ Pari) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kit-xinh-giơ ký tắt. Ngày27-1-1973Hiệp
định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở ViệtNamđã được ký chính thức giữa
Bộ trưởng Ngoại giao các bên.
Hiệp
định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
Hoa
Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân
sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam ViệtNam. Rút hết quân đội của
Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến
tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.
Tôn
trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam
ViệtNam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình
thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.
Ngày29-3-1973,
Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Đơn vị cuối cùng của quânđộiviễn chinh
Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ
cộng hoà trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên.
Trong
thời gian khoảng 5 năm, Hiệp định Pari đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45
cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng
nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp
chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua
bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương,
nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết
quân Mỹ và quân 5 nước thân Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khỏi miền
Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân
miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ, trước sau vẫn nêu quan điểm “có đi có lại”, đòi hai
bên (cả quân đội miền Bắc có tại miền Nam) “cùng rút quân”.
Hiệp
định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của
nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Pari là
tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ
cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này
phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi
đi vào trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét