Vào
đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tác động trực
tiếp đến nước Pháp. Nhằm giải quyết những khó khăn và mâu thuẫn trong nước,
thực dân Pháp đã tiến hành mọi thủ đoạn, biện pháp tăng cường vơ vét, bóc lột
và đàn áp nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Điều đó càng làm
cho mâu thuẫn đối kháng giữa nhân dân ta với thực dân Pháp và bè lũ tay sai lên
tới đỉnh điểm. Trong bối cảnh đó, Đảng ta chủ trương phát động và lãnh đạo nhân
dân cả nước đứng lên đấu tranh; lấy địa bàn Nghệ An-Hà Tĩnh là một trọng điểm,
do các tổ chức đảng ở đó trực tiếp tổ chức lãnh đạo. Phong trào Xô viết
Nghệ-Tĩnh nhanh chóng phát triển thành cao trào, đã làm thực dân Pháp vô cùng
hoảng sợ. Xô viết Nghệ - Tĩnh với biểu tượng điển hình là “Tiếng trống năm 30”
còn vang vọng mãi trong lòng dân tộc. Nó là cuộc “diễn tập, rèn luyện” lực
lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, để lại nhiều bài học có ý nghĩa
lịch sử (có thành công và chưa thành công); trước hết là bài học bước đầu hình thành nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh cách mạng của Đảng.
Ngay
sau khi thành lập, để thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng ta đã ra sức xây dựng lực lượng cách mạng gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang; tích cực tổ chức và chỉ đạo đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ
trang. Nhờ đó, đã từng bước động viên, tập hợp được đông đảo quần
chúng thuộc mọi tầng lớp, giai cấp: công nhân, nông dân, một bộ phận địa chủ,
phú nông, trí thức, tư sản nhỏ... tham gia vào các hoạt động đấu tranh cách
mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, các đội Tự vệ Đỏ - tiền
thân của lực lượng vũ trang - dần được thành lập để làm nòng cốt trong đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang chống chính quyền thực dân, phong kiến
(tính đến tháng 6-1931, tại Nghệ An, Hà Tĩnh đã có tới 411 đội tự vệ với 9.148
đội viên, trong đó có hàng trăm đội viên cảm tử). Nhờ đó, đã tổ chức được nhiều
cuộc đấu tranh (từ tháng 8-1930 đến tháng 5-1931 có 1.223 cuộc đấu tranh, quy
tụ hàng trăm nghìn quần chúng tham gia) và đặc biệt, do có sự lãnh đạo của Đảng
các cuộc đấu tranh như được tiếp thêm sức mạnh đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng,
làm cho phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng dâng cao, làm cho địch
lúng túng, bị động.
Từ
những cuộc bãi công, biểu tình đòi giảm sưu, giảm thuế được kết hợp và chuyển
sang bạo động vũ trang, như: trừng trị bọn phản động, cường hào, đốt phá huyện
đường, thiêu hủy hồ sơ của bọn quan lại, phá nhà lao... Ngoài ra, các đội Tự vệ
Đỏ còn được giao nhiệm vụ canh gác bảo vệ tổ chức cơ sở đảng, bảo vệ các Xô
viết non trẻ, các tổ chức quần chúng, cũng như tuyên truyền vận động quần chúng
nhân dân thực hiện các chính sách mới của chính quyền Xô viết. Tuy lực lượng
chủ yếu của Phong trào đấu tranh là công - nông, nhưng với việc huy động đông
đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ cách mạng, thấy rõ mục tiêu của phong
trào, nên đã xây dựng được lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu và những đội
quân vũ trang đầu tiên của cách mạng. Xô viết Nghệ-Tĩnh đã thể hiện bước đầu
hình thành nghệ thuật tập hợp lực lượng, tổ chức, chỉ đạo đấu tranh cách mạng
phong phú, sinh động của Đảng ta.
Ngoài
hai hình thức đấu tranh cơ bản là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang,
Cao trào Xô viết Nghệ-Tĩnh còn thể hiện rõ sự chỉ đạo khôn khéo, tài tình của
Đảng ta trong đấu tranh địch vận. Các tổ
chức đảng đã chú ý công tác địch vận, trong đó thực hiện đấu tranh nhằm phân
hóa kẻ thù, đánh thức lòng yêu nước trong một bộ phận binh lính người Việt và
một số binh lính người nước ngoài. Ban Binh vận Trung Kỳ và Ban Binh vận thuộc
Tỉnh ủy Nghệ An, Hà Tĩnh... đã tích cực vận động binh lính địch bằng nhiều hình
thức: truyền đơn, khẩu hiệu, tuyên truyền miệng... để các cuộc đấu tranh đạt
được những yêu sách và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hành động khủng
bố của thực dân Pháp và tay sai. Từ tháng 10-1930, khi Trung ương Đảng ra Nghị
quyết về tăng cường công tác vận động binh lính trong hàng ngũ địch, công tác
binh vận được đẩy lên một bước. Tiếp đó, ngày 27-12-1930, Xứ ủy Trung Kỳ ra
Nghị quyết, đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh vận động binh lính địch, kể cả binh lính
người Việt và lính lê dương. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông
cáo gửi các xứ ủy về việc chống chính sách khủng bố trắng của địch, nhấn
mạnh tầm quan trọng của công tác vận động binh lính địch.
Tháng
2-1931, Xứ ủy Trung Kỳ thành lập Ban Binh vận của Xứ ủy, cùng với Thành ủy
Vinh-Bến Thủy tăng cường vận động cách mạng trong binh lính lê dương đóng tại
Vinh. Kết quả, tại Nghệ An, ta đã xây dựng được một chi bộ Cộng sản trong đơn
vị lính lê dương đóng tại Vinh. Hà Tĩnh cũng xây dựng được chi bộ Đảng trong
lính khố xanh tại đồn Nghèn (Can Lộc) và đồn Thị xã. Các chi bộ đã có một số
hoạt động ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân địa phương. Đây là phương châm đấu
tranh mềm mỏng, ít tốn xương máu, nhưng hiệu quả và cao hơn là làm thay đổi so
sánh lực lượng có lợi cho phong trào, bất lợi cho địch. Như vậy, bước đầu Đảng
ta đã hình thành tư duy: “hai chân” (quân sự, chính trị), “ba mũi” (quân sự,
chính trị, binh vận) để tiến công địch, tạo cơ sở phát triển đường lối, phương
pháp chỉ đạo cách mạng của Đảng.
Thực
tiễn cách mạng chỉ ra rằng: không có một cuộc cách mạng nào là dễ dàng, bằng
phẳng mà không có đổ máu, hy sinh. Để giảm thiệt hại cho Xô viết Nghệ - Tĩnh, Đảng
ta chủ trương phối hợp đấu tranh giữa các vùng, miền, buộc kẻ thù phải phân tán
lực lượng, bị động đối phó. Khi Xô viết Nghệ - Tĩnh bị đàn
áp đẫm máu (10-1930), Trung ương Đảng ra Thông cáo về
việc đối phó với chính sách tàn sát quần chúng, chủ trương
rải truyền đơn trong cả nước phản đối chính sách khủng bố “trắng” của thực dân
Pháp và tay sai.
Thực
hiện chủ trương và lời kêu gọi của Đảng, nhân dân nhiều địa phương trong cả
nước đứng dậy đấu tranh, phản đối chính sách đàn áp, bóc lột hà khắc của chính
quyền thực dân, phong kiến, hô vang các khẩu hiệu ủng hộ đồng bào Nghệ An, Hà
Tĩnh, chống khủng bố “trắng”. Nhiều cuộc đấu tranh nổ ra ở Thái Bình, Hà Nam,
Vĩnh Yên, Quảng Trị, Quảng Ngãi... đã thể hiện tinh thần yêu nước, tình đoàn
kết và sự “chia lửa” đấu tranh cùng nhân dân Nghệ - Tĩnh Đỏ. Cuộc đấu tranh lan
rộng ra phạm vi cả nước, thể hiện cả dân tộc là một khối đoàn kết, thống nhất
trong phong trào cách mạng chống sự nô dịch. Đây là cơ sở đầu tiên, đặt nền
móng cho nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh cách mạng giữa mặt trận chính diện (Xô
viết Nghệ - Tĩnh) với mặt trận sau lưng địch (các vùng, miền). Nó cũng đánh dấu
bước khởi đầu tiến trình phát triển không ngừng của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Cao
trào Xô viết Nghệ - Tĩnh còn thể hiện sự kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại và tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, sự
đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trong
lúc trực tiếp chỉ đạo các phong trào đấu tranh cách mạng, Đảng ta và đồng chí
Nguyễn Ái Quốc còn thường xuyên báo cáo tình hình và nhận được sự chỉ đạo, cổ
vũ kịp thời của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Mặc dù sự chỉ đạo của QTCS có một số
điểm chưa thật phù hợp với thực tế cách mạng Việt Nam, nhưng nó có ý nghĩa lớn,
tạo hậu thuẫn và gây tiếng vang cho phong trào cách mạng Đông Dương, cũng như
uy tín của Đảng Cộng sản (ĐCS) Đông Dương. Nhờ đó, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp
hành QTCS (tháng 4-1931) đã chính thức công nhận ĐCS Đông Dương là một chi bộ
độc lập của QTCS và đến Đại hội VII QTCS (tháng 7-1935), đã công nhận ĐCS Đông
Dương là Phân bộ chính thức.
Cùng với đó, Đảng ta kêu gọi sự ủng hộ của các ĐCS anh
em, của dư luận tiến bộ trên thế giới. Đáp lời kêu gọi của Đảng, Báo Sự thật của ĐCS Liên Xô (tháng 1-1931) và Báo Vô sản của ĐCS Pháp (tháng 10-1931) đã đăng bài giới thiệu và
ủng hộ Xô viết Nghệ-Tĩnh. Thậm chí trên chính trường Pháp, ĐCS Pháp còn kêu gọi
nhân dân tiến bộ Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương, dẫn đến
việc ra đời Ủy ban toàn xá tù chính trị Đông Dương. Ngày 15-10-1933, ĐCS Pháp,
Trung Quốc và Nhật Bản gửi thư bày tỏ sự ủng hộ ĐCS Đông Dương... Cao trào Xô
viết Nghệ - Tĩnh đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, vượt ra ngoài biên giới. Đó là kết
quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trước
hết là sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, cũng như của nhân dân tiến bộ
trên thế giới.
Cao
trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, bước đầu đã thể hiện phương châm đấu tranh toàn
diện (kinh tế, chính trị, văn hóa...), kết hợp vừa đấu tranh, vừa xây dựng lực
lượng và bồi dưỡng sức dân.
Cao
trào không chỉ in đậm dấu ấn về nội dung, tính chất của cuộc đấu tranh, với
tinh thần cách mạng bất khuất, sôi sục, quả cảm của quần chúng mà còn thể hiện
ở việc thành lập và hoạt động của các Ban Chấp hành Nông hội Đỏ ở thôn, xã. Tại
Nghệ An, Nông hội Đỏ nắm chính quyền ở các làng, xã thuộc huyện Thanh Chương,
Nam Đàn và một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. Tại Hà
Tĩnh, chính quyền Xô viết được thành lập ở 172 xã, mà phần lớn thuộc các huyện
Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thọ. Các tổ chức đó đã đứng ra đảm nhiệm chức năng của
chính quyền cách mạng, thực hiện nhiều chính sách về kinh tế, chính trị, văn
hóa, làm cho nhân dân thấy rõ tính ưu việt của chế độ chính trị mới; từ đó, tin
theo Đảng và chính quyền Xô viết, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Các chính sách do chính quyền Xô viết thực hiện tuy chỉ
tồn tại rất ngắn, nhưng đã mang lại cho nhân dân nhiều quyền lợi mà họ không
bao giờ có được dưới chế độ thực dân, phong kiến. Nó có tác dụng kích thích cao
độ tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của đông đảo nhân dân. Chỉ riêng trong
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã có trên 60.000 người tham gia các tổ chức quần
chúng do Đảng lãnh đạo.
Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh giữ một vị trí quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính từ cao trào
cách mạng này, nghệ thuật chỉ đạo cách mạng, nhất là đấu tranh cách mạng của
Đảng đã bước đầu hình thành và ngày càng được bổ sung, phát triển trong thực
tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc cùng với mỗi bước xây dựng
và trưởng thành của Đảng.
Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trả lờiXóa