Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021

NVI37 - NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC THỰC TẾ TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Cứ thành thói quen xấu vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) hằng năm, hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6) trên nhiều trang mạng trong và ngoài nước cũng như một số phương tiện truyền thông quốc tế đã có những đánh giá sai lệch, cố tình bôi đen hiện thực, xuyên tạc thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Sự thật đằng sau chiêu bài lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” đang ra sức thực thi cái gọi là “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” của riêng Họ để “đổi trắng thay đen”, “nói không thành có” về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay.

Đồng thời, Họ triệt để lợi dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Mặt khác, Họ còn đưa ra luận điệu sai lệch về tự do ngôn luận, tự do nhân quyền; phủ nhận trắng trợn, vô lý các quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin.

Để đạt được mục đích họ thành lập một số tổ chức báo chí như: “Phóng viên không biên giới”, “The project 88”…để đấu tranh cho cái gọi là thả tự do cho “tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị”, không những thế Họ còn đưa ra bảng xếp hạng hết sức sai trái về tự do báo chí ở Việt Nam, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Mục đích của các tổ chức này là đòi thả tự do cho các đối tượng bi cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam mà Họ xướng tên là “các nhà báo độc lập” trong thời gian gần đây như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo…Sâu xa hơn là tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối lật đổ chính quyền ở nước ta hiện nay.

Trước những chiêu trò trên cần nhận thức đầy đử một số vấn đề sau:

Tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam luôn được đề cao, tôn trọng và bảo đảm

Trước hết, khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đông quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp Quốc tế trong đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948 “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được chúng ta tuân thủ, kế thừa, phát triển phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh.

Ngược dòng lịch sử nhìn về quá khứ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Các văn kiện của Đảng các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cụ thể, tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực thi trong thực tế đời sống Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 đó là: Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Hơn nữa, Điều 13 luật này chỉ rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống, tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình đóng góp tài năng, trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Những con số biết nói

Đến hết năm 2020 Việt Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 Báo, 612 Tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền. Tất cả đã tạo nên bức tranh báo chí toàn cảnh của năm 2020 và dự báo triển vọng phát triển báo chí ở nước ta tiếp tục tang trong những năm tới. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế giới. Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt kinh tế và văn hóa xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê, số lượng người sử dụng Internet trên toàn thế giới hiện nay trên 3,9 tỷ người chiếm hơn một nửa dân số thế giới. Tính đến nay, Việt Nam đã có khoảng 64 triệu người kết nối mạng trực tuyến và chiếm khoảng 67% dân số, đứng thứ 16 thế giới về số lượng người sử dụng Internet. Trung bình, người dùng Việt Nam dành tới 6 giờ 42 phút mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet và dùng trung bình 2 giờ 32 phút để tham gia mạng Xã hội.

 Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế, mạng Facebook ở Việt Nam phát triển nhanh nhất khu vực và là quốc gia có lượng người dùng internet lớn thứ ba tại khu vực Đông Nam Á. Hiện tại, Việt Nam có trên 35 triệu người sở hữu tài khoản Facebook; trong đó, khoảng 21 triệu người truy cập hằng ngày thông qua thiết bị di động.

Hiện nay , tốc độ Download trung  bình của các mạng cố định bằng rộng đạt 61,69 Mbps, cao hơn 45% so với kết quả đo do hệ thống nước ngoài đã công bố. Đối với mạng di động, số liệu Download trung bình đạt 39,44 MBps cũng cao hơn 18,7%. Kết quả cho thấy chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế. Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet Việt Nam trong việc đảm bảo chất lượng kết nối Internet phục vụ cho nhu cầu sử dụng Internet. Sóng của những hãng thông tấn, báo chí lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg dễ dàng bắt được tại Việt Nam… Qua internet, người dân Việt Nam ngày nay có thể tiếp cận tin, bài của các cơ quan thông tấn, báo chí nước ngoài, như: AFP, AP, BBC, Reuters, Kyodo...

Những minh chứng trên cho thấy, không ai có thể phủ nhận được những thành thành tựu to lớn, vững chắc hướng đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí hướng và sự sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luật, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia.

Hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình vì không ai khác chính mỗi công dân Việt là người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó đến đâu. Những luận điệu xuyên tac, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân, không đại diện cho dân, không do dân và vì dân sao có thể gọi là dân chủ như những gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.

Dễ hiểu rằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí là tự do phát biểu, trình bày ý kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội qua các cơ quan đại điẹn, qua báo chí. Tuy nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không phải là tự do “quá trớn”. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, rất đáng lên án, phê phán những ý kiến không vì lợi ích quốc gia, dân tộc với mưu đồ phá hoại công cuộc đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...