Cứ thành thói quen xấu vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) hằng
năm, hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6) trên nhiều trang mạng
trong và ngoài nước cũng như một số phương tiện truyền thông quốc tế đã có những
đánh giá sai lệch, cố tình bôi đen hiện thực, xuyên tạc thực tế tự do ngôn luận,
tự do báo chí ở Việt Nam.
Sự thật đằng sau chiêu bài lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí
Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn trong và ngoài nước lấy
danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” đang ra sức thực thi cái gọi là “quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí” của riêng Họ để “đổi trắng thay đen”, “nói không thành
có” về thực tế tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay.
Đồng thời, Họ triệt để lợi
dụng sự đánh giá không khách quan, trung thực, thiếu thiện chí của một số hãng
thông tấn, báo chí nước ngoài về tình
hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm
dân chủ, nhân quyền nhằm hạ thấp vị
thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Mặt khác, Họ còn đưa ra luận điệu sai lệch
về tự do ngôn luận, tự do nhân quyền; phủ nhận trắng trợn, vô lý các quy định của
pháp luật về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin.
Để đạt được mục đích họ thành lập một số tổ chức báo chí như: “Phóng viên
không biên giới”, “The project 88”…để đấu tranh cho cái gọi là thả tự do cho “tù
nhân lương tâm, tù nhân chính trị”, không những thế Họ còn đưa ra bảng xếp hạng
hết sức sai trái về tự do báo chí ở Việt Nam, vu khống Việt Nam bóp nghẹt tự do
ngôn luận, tự do báo chí. Mục đích của các tổ chức này là đòi thả tự do
cho các đối tượng bi cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp
luật Việt Nam mà Họ xướng tên là “các nhà báo độc lập” trong thời gian gần đây
như: Trần Thị Tuyết Diệu, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm
Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Trần Quốc Khánh, Trương Châu Hữu Danh, Nguyễn Thanh
Nhã, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo…Sâu xa hơn là tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối
lật đổ chính quyền ở nước ta hiện nay.
Trước những chiêu trò trên cần nhận thức
đầy đử một số vấn đề sau:
Tự do ngôn luận, tự do báo chí
ở Việt Nam luôn được đề cao, tôn trọng và bảo đảm
Trước hết, khẳng định Việt Nam là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đông quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp Quốc tế trong
đó có Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo
Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948 “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm
kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện
truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá
trị, có ý nghĩa nhân văn cao cả, luôn được chúng ta tuân thủ, kế thừa, phát triển
phù hợp trong từng điều kiện hoàn cảnh.
Ngược dòng
lịch sử nhìn về quá khứ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946,
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa
văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất
nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân
Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp,
tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
Các văn kiện của Đảng các bản
Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cụ thể, tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được bảo đảm, thực
thi trong thực tế đời sống Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông
tin và Luật Báo chí năm 2016. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy
định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện
quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc
cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới,
hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện
quyền tiếp cận thông tin. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền
tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được
yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.
Đối với quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại
Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 đó là: Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và
thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Hơn nữa, Điều 13 luật này chỉ rõ:
“Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của
mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo
hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo
chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và
công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Như vậy, từ khi Nhà nước ta ra đời đến nay quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí luôn được tôn trọng, bảo đảm và ngày càng được thực thi trong cuộc sống,
tạo điều kiện cho công dân được nói lên tiếng nói của mình đóng góp tài năng,
trí tuệ công sức của mình vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời với việc
bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật; không để các tổ chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện
sự tự do vượt quá luật định, với những mưu lợi bất chính, đi ngược lại giá trị
của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Những con số biết nói
Đến hết năm 2020 Việt
Nam có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động, 779 cơ quan báo chí (trong đó có
142 Báo, 612 Tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp
phép hoạt động phát thanh truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193
kênh truyền. Tất cả đã tạo nên bức tranh báo chí toàn cảnh của năm 2020 và dự báo
triển vọng phát triển báo chí ở nước ta tiếp tục tang trong những năm tới. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao nhất trên thế giới.
Công nghệ thông tin và mạng xã hội đã và đang được sử dụng rộng rãi trong đời
sống, sinh hoạt kinh tế và văn hóa xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê, số lượng
người sử dụng Internet trên toàn thế giới hiện nay trên 3,9 tỷ người chiếm hơn
một nửa dân số thế giới. Tính đến nay, Việt Nam đã có khoảng 64 triệu người kết
nối mạng trực tuyến và chiếm khoảng 67% dân số, đứng thứ 16 thế giới về số
lượng người sử dụng Internet. Trung bình, người dùng Việt Nam dành tới 6 giờ 42
phút mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới mạng Internet và dùng
trung bình 2 giờ 32 phút để tham gia mạng Xã hội.
Hiện nay , tốc độ Download trung bình của các mạng cố định bằng rộng
đạt 61,69 Mbps, cao hơn 45% so với kết quả đo do hệ thống nước ngoài đã công bố.
Đối với mạng di động, số liệu Download trung bình đạt 39,44 MBps cũng cao hơn
18,7%. Kết quả cho thấy chất lượng truy cập Internet Việt Nam cơ bản đáp ứng
tiêu chuẩn, một số thông số cao hơn số liệu công bố bởi các hệ thống quốc tế.
Điều này phản ánh nỗ lực của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet Việt
Nam trong việc đảm bảo chất lượng kết nối Internet phục vụ cho nhu cầu sử dụng
Internet. Sóng của những hãng thông tấn, báo chí lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK,
DW, Australia Network, KBS, Bloomberg dễ dàng bắt được tại Việt
Nam… Qua internet, người dân Việt Nam ngày nay có thể tiếp cận tin, bài của
các cơ quan thông tấn, báo chí nước ngoài, như: AFP, AP,
BBC, Reuters, Kyodo...
Những minh chứng trên cho thấy, không ai có thể phủ nhận được những
thành thành tựu to lớn, vững chắc hướng đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
hướng và sự sự chủ động thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết quốc tế nhằm
bảo đảm quyền tự do ngôn luật, tự do báo chí mà Việt Nam tham gia.
Hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm về thực tế việc thực hiện quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí của mình vì không ai khác chính mỗi công dân Việt là
người trong cuộc, rõ hơn hết việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đó
đến đâu. Những luận điệu xuyên tac, vu khống không xuất phát từ tiếng nói của dân,
không đại diện cho dân, không do dân và vì dân sao có thể gọi là dân chủ như những
gì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị rêu rao.
Dễ hiểu rằng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí là tự do phát biểu, trình bày ý kiến của mình bàn bạc một công
việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý
kiến vào những vấn đề chung của xã hội qua các cơ quan đại điẹn, qua báo chí.
Tuy nhiên, tự do ngôn luận, tự do báo chí đều có những giới hạn nhất định, không
phải là tự do “quá trớn”. Chúng ta rất hoan ngênh những ý kiến xây dựng, đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, rất đáng lên án,
phê phán những ý kiến không vì lợi ích quốc gia, dân tộc với mưu đồ phá hoại công
cuộc đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét