Hiện
nay, một trong những âm mưu của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách
mạng Việt Nam là đưa ra những quan điểm sai trái nhằm phủ nhận con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán có cơ sở khoa học,
chỉ rõ mục đích chính trị phản động của các quan điểm sai trái phủ nhận con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Chúng thường rêu rao là “Việt Nam lựa chọn con đường đi lên
CNXH là một sai lầm lịch sử”, là ‘ảo tưởng”, là “thiên đường bánh vẽ”. Đặc
biệt, sau khi Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2045 đưa
nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN, các thế lực thù địch,
phản động, cơ hội chính trị cho rằng, đó chỉ là một thứ “mị dân”. Theo lập luận
của chúng, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có vai trò lãnh đạo cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, không đủ khả năng lãnh đạo trong công cuộc phát triển kinh tế-xã
hội (KT-XH), vì “những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới là do các
nước tư bản đầu tư vào, chứ không phải do năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam”.
Dưới chiêu trò “bình mới rượu cũ”, các luận điệu nêu trên
chủ yếu dựa vào một số lý thuyết chống cộng, chủ nghĩa duy vật máy móc, lý
thuyết “hội tụ”, lý thuyết “xã hội hậu công nghiệp”, lý thuyết các nền văn
minh... nhằm biện minh cho sự tồn tại của chế độ TBCN, phủ nhận tính khách
quan của thời kỳ quá độ đi lên CNXH trong thời đại ngày nay. Mục đích chính trị
phản động của các quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
nhằm gây hoang mang, mất niềm tin, ru ngủ tinh thần cảnh giác cách mạng của
nhân dân; sâu xa hơn, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, phủ nhận khả năng thắng lợi của con đường quá độ bỏ qua chế
độ TBCN đi lên CNXH ở Việt Nam, từng bước chuyển hóa Việt Nam theo
quỹ đạo của CNTB.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã khẳng định một
chân lý: Đi theo con đường cách mạng XHCN và đi lên CNXH là phù hợp với quy
luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với khát vọng của toàn
thể nhân dân Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã luận giải khoa học về sự thay thế của
những hình thái KT-XH từ thấp đến cao là quá trình lịch sử-tự nhiên,
là do vận động của những quy luật KT-XH khách quan. Với quan điểm duy
vật biện chứng khoa học, các nhà kinh điển Mác-xít đã chỉ ra hình thái KT-XH cộng
sản chủ nghĩa tất yếu ra đời và thay thế hình thái KT-XH TBCN. Nó
phải trải qua “một thời kỳ và hai giai đoạn”, đó là thời kỳ quá độ, giai đoạn
đầu là CNXH, giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình
thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất
so với hình thái KT-XH TBCN nên phải trải qua quá trình cải biến cách mạng
lâu dài; không bao giờ tự phát hình thành mà thông qua vận động của các quy
luật về KT-XH, con đường đấu tranh cách mạng để xóa bỏ áp bức, bóc lột của
giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Hệ thống lý luận cơ bản đó của Chủ
nghĩa Mác-Lênin là cách mạng, khoa học, được vận dụng thành công ở nước Nga từ
năm 1917. CNXH từ lý luận trở thành hiện thực, từ một nước phát triển thành hệ
thống chính trị thế giới đối lập với hệ thống TBCN trong hơn 7 thập
niên.
Về thực tiễn, CNXH hiện thực ra đời đã thể hiện tính ưu việt
hơn CNTB. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, sau đó là Liên Xô có thời gian
chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Sản
lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới; sản lượng điện
đạt 440 tỷ kWh (gấp hơn 300 lần so với năm 1913; bằng 4 nước lớn là Anh, Pháp,
Đức, Italy cộng lại); dầu mỏ đạt 353 triệu tấn, than 624 triệu tấn, thép 121
triệu tấn (vượt sản lượng của Mỹ). Có thể thấy, trong một thời gian ngắn, CNXH
ra đời ở Liên Xô và nhiều nước XHCN tuy chưa hoàn thiện nhưng đã phát triển lớn
mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so với CNTB.
Điều đó cho thấy, CNXH là một hiện thực, hoàn toàn không
phải là “giấc mơ”, cũng chẳng phải là “ảo tưởng về một thiên đường” như các thế
lực thù địch rêu rao! Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu (trước đây) chỉ
là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
chứ không phải do Chủ nghĩa Mác-Lênin hay lý tưởng về CNXH đã lỗi thời, lạc
hậu.
Mặc dù CNTB đạt được những thành tựu to lớn nhưng chủ yếu
đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản mà không vì lợi ích của quảng đại quần
chúng nhân dân lao động. Những mâu thuẫn nội tại và đối kháng trong xã
hội TBCN chỉ giải quyết bằng con đường tất yếu là cách mạng XHCN.
Trong bối cảnh hiện nay, CNTB đã có những thích nghi, phát triển nhất
định nhờ tận dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu
hóa và kinh tế tri thức. Các nước XHCN đang ở giai đoạn khó khăn tạm thời, song
theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, CNTB sẽ bị xóa bỏ,
chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH ưu việt hơn sẽ ra đời, tồn tại và
phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam, những năm nửa đầu thế kỷ 20,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có 30 năm bôn ba ở nước ngoài, tìm ra con đường cách
mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm lược và đô hộ
của chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Người khẳng định, muốn giành lại được độc
lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế
độ XHCN. Từ năm 1930, “Chánh cương vắn tắt” của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua đã xác định rõ
đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1991, Đảng đã ban hành “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, trong đó chỉ ra 6 đặc trưng
cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã phát triển sáng tạo thành 8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, trong đó
đặc trưng bao trùm là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hơn 93 năm được rèn giũa, tôi luyện, thử thách trong thực
tiễn cách mạng sôi động, phong phú, Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính
trị, có trí tuệ, có khả năng lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng CNXH ở Việt
Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực
dân, đế quốc lớn trong thế kỷ 20, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) bị khủng hoảng, sụp
đổ thì Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên CNXH, kiên trì đường lối đổi mới,
giữ vững nguyên tắc “đổi mới nhưng không đổi màu”. Trải qua hơn 35 năm tiến
hành đổi mới, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được thành tựu rất to lớn,
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của
Đảng đánh giá khái quát: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH
của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Trong những chặng đường tới, Đảng ta đã có dự báo khoa học
về 4 nguy cơ, những thách thức không nhỏ từ bên ngoài và ở trong nước đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với phương châm vượt qua
thách thức, tận dụng những cơ hội, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
hơn, Đảng ta đặt ra mốc: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng XHCN”(2) là hoàn
toàn có cơ sở khoa học đúng đắn và có tính khả thi.
Với trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, được sự ủng hộ của nhân dân thì việc
kiên định lựa chọn con đường đi lên CNXH cũng không ngoài mục đích nhân văn cao
đẹp là tiếp nối truyền thống, xứng đáng với các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh
dũng, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; đồng thời đáp ứng lòng mong
đợi và phù hợp với khát vọng, mong muốn của gần 100 triệu người dân Việt Nam.
bài viết rất thực tế
Trả lờiXóa