Chuyến công tác Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu
cấp cao Việt Nam góp phần triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của
Đảng, khẳng định Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ với các nước láng giềng,
các nước trong khu vực, tích cực triển khai các cam kết về thích ứng biến đổi
khí hậu, thể hiện trách nhiệm trước các vấn đề của khu vực và thế giới.
Chiều tối ngày 5/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại
biểu cấp cao Việt Nam đã về tới Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham
dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4 tại Thủ đô Viêng Chăn,
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào theo lời mời của Thủ tướng Chính phủ Lào
Sonexay Siphandone.
Đoàn đại biểu chính thức tháp tùng Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính dự hội nghị có Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan; Thứ trưởng Bộ Công
an Nguyễn Duy Ngọc; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt; Phó Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Thành; Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê
Công Thành; Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Xuân Sang; Thứ trưởng Bộ
Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang; Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá
Hùng.
Trong thời gian tại Lào, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tham
dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4; làm việc với Thủ
tướng Lào Sonexay Siphandone; ăn sáng làm việc với Thủ tướng Lào Sonexay
Siphandone và Thủ tướng Campuchia Hun Sen.
Thể hiện sự quan tâm cao nhất của Việt Nam
Bày tỏ lo ngại trước những thách thức chưa từng có đối với
Lưu vực Mekong, nhất là đồng bằng sông Cửu Long, do tác động cộng hưởng của
biến đổi khí hậu, sức ép của yêu cầu phát triển kinh tế và sự gia tăng sử dụng
nước nhanh chóng, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh phải đổi mới tư duy hợp
tác và có những bước đi đột phá, và với tinh thần đó đưa ra những đề xuất về
định hướng hợp tác của Uỷ hội trong thời gian tới.
Thứ nhất, cần tái khẳng định cam kết
mạnh mẽ nhất, nghiêm túc tuân thủ và thực hiện Hiệp định Mekong năm 1995, cũng
như Bộ Quy chế sử dụng nước đã được xây dựng, đồng thời tập trung thực hiện tốt
các kế hoạch, chiến lược của Uỷ hội.
Thứ hai, mọi chính sách và hành động cần lấy con người làm
trung tâm, với cách tiếp cận toàn dân, toàn diện và toàn lưu vực, nhằm bảo đảm
sinh kế bền vững của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người dân sinh sống trong lưu vực, nhất là cư dân sinh sống trên và
dọc sông, đối với các tình huống bất trắc xảy ra như dịch bệnh, thiên tai, bão
lũ…; tăng cường khả năng thích ứng, tự cường của mỗi cộng đồng trước những biến
đổi nhanh chóng hiện nay; đồng thời tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm
xuyên quốc gia ở tiểu vùng sông Mekong.
Thứ ba, tăng cường sự phối kết hợp giữa Ủy hội và các khuôn
khổ hợp tác tiểu vùng khác, trong đó phát huy vai trò là một trung tâm tri
thức, cung cấp thông tin, dữ liệu, tư vấn cho các cơ chế hợp tác.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng gió và mặt trời,
kết nối và nâng cấp mạng lưới điện của vùng, qua đó góp phần phát triển bền
vững, bảo đảm an ninh năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ năm, thúc đẩy hợp tác giao thông thủy để tăng cường kết
nối các nền kinh tế, thúc đẩy giao thương, đồng thời bảo đảm vận tải an toàn và
có hiệu quả, không gây hại đến nguồn nước và môi trường sinh thái.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác với các đối tác để tranh thủ sự
hỗ trợ về nguồn lực tài chính, tri thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại, gắn
kết hoạt động của Uỷ hội với nỗ lực thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN và các
chương trình nghị sự quốc tế lớn khác.
Thủ tướng đã đề xuất các hoạt động hợp tác cụ thể, kêu gọi
các nước đối tác, các đối tác đối thoại, các nước ở khu vực thượng nguồn và các
đối tác là các nước phát triển trong việc hợp tác, chia sẻ dữ liệu thông tin,
tăng cường hỗ trợ về tri thức, kinh nghiệm, tài chính, nguồn lực để Uỷ hội thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm tốt nhất sự phát triển bền vững của dòng sông
và lưu vực sông Mekong.
Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng
định Việt Nam luôn coi trọng hợp tác Mekong, đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia
vào các hoạt động của Ủy hội một cách chủ động, tích cực và xây dựng nhằm góp
phần thực hiện đầy đủ Hiệp định Mekong năm 1995, phát huy “tinh thần hợp tác
Mekong”, bảo đảm hài hòa lợi ích của nhân dân các nước, lợi ích các quốc gia
trong Lưu vực, giữa con người và thiên nhiên, giữa thế hệ hôm nay và các thế hệ
mai sau, và hiện thực hóa mục tiêu chung là phát triển bền vững Lưu vực sông
Mekong, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Trong phát biểu của Lãnh đạo cấp cao các nước, nhiều ý kiến
chia sẻ với những thông điệp của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, trong đó các
nước đều khẳng định cam kết mạnh mẽ của mình với việc thực hiện Hiệp định sông
Mekong 1995 và coi trọng vai trò của Uỷ hội sông Mekong quốc tế; cho thấy điểm
đồng rất lớn của các nước thành viên Uỷ hội chính là nhu cầu tăng cường hợp
tác, xây dựng các kế hoạch, dự án phát triển chung để bảo đảm sự phát triển bền
vững của lưu vực sông Mekong.
Kết thúc Hội nghị, Trưởng đoàn các nước đã thông qua Tuyên
bố chung - Tuyên bố Viêng Chăn nhằm tiếp tục khẳng định cam kết chính trị cao
nhất của bốn quốc gia thành viên, các mục đích và nguyên tắc hợp tác vì sự phát
triển bền vững của Lưu vực sông Mekong cũng như xác định các trọng tâm hợp tác
của Ủy hội trong thời gian tới.
Rà soát, thúc đẩy các dự án hợp tác trọng điểm Việt Nam -
Lào
Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có cuộc làm việc với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone
Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có
cuộc làm việc với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone nhằm rà soát, đánh giá, kiểm
điểm, rút kinh nghiệm việc triển khai các hoạt động hợp tác song phương theo
chỉ đạo của Bộ Chính trị hai nước và thỏa thuận tại Kỳ họp lần thứ 45 Ủy ban
liên Chính phủ Việt Nam – Lào, đồng thời thống nhất các cơ chế mới để thúc đẩy
hợp tác cho đúng, trúng, kịp thời và hiệu quả.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chúc mừng Lào tổ chức
thành công Hội nghị Uỷ hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4, qua đó góp phần nâng
cao vai trò và vị thế của Lào trong khu vực. Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng
chúc mừng những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh em đã đạt được
trong thời gian vừa qua, đồng thời bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ Lào mà
đứng đầu là đồng chí Thủ tướng Sonexay Siphandone, nhân dân Lào anh em sẽ vượt
qua khó khăn, triển khai thắng lợi nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ IX nhằm xây dựng đất
nước Lào độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, ngày càng phồn vinh, thịnh
vượng.
Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone vui mừng gặp lại Thủ tướng
Phạm Minh Chính sau chuyến thăm chính thức Lào của Thủ tướng Phạm Minh Chính
(tháng 01/2023); cảm ơn Thủ tướng đã tham dự và đóng góp vào thành công của Hội
nghị cấp cao; cảm ơn sự giúp đỡ, hỗ trợ vô tư, trong sáng của Việt Nam dành cho
Lào trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong
công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày nay; trân trọng chuyển
lời thăm hỏi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thongloun Sisoulith và các đồng chí
lãnh đạo cấp cao của Lào tới Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí Lãnh
đạo cấp cao Việt Nam; đánh giá cao những thành tựu to lớn và toàn diện Việt Nam
đã giành được trong công cuộc xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế; đặc
biệt là nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau dịch bệnh, có
vai trò và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Hai Thủ tướng vui mừng và đánh giá cao sự phát triển tốt
đẹp của quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt
Nam – Lào trên các lĩnh vực giữa hai nước thời gian qua. Hai bên trao đổi nhiều
đoàn trên tất cả các cấp, các kênh; tiếp tục phát huy hiệu quả các cơ chế hợp
tác song phương, nhất là Kỳ họp lần thứ 45 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam -
Lào; tổ chức thành công hàng trăm hoạt động ý nghĩa trong “Năm Đoàn kết Hữu
nghị Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 2022” ở cả hai nước. Đặc biệt, hợp tác
thương mại là điểm sáng với tổng kim ngạch song phương cả năm 2022 đạt hơn 1,7
tỷ USD, tăng hơn 24% so với năm 2021, vượt mục tiêu đã đề ra (tăng trưởng
10-15%).
Hai bên nhất trí nỗ lực triển khai Thỏa thuận chiến lược
hợp tác Việt - Lào giai đoạn 2021-2030, Hiệp định hợp tác song phương Việt-Lào
2021-2023 và các thỏa thuận cấp cao, kế hoạch hợp tác đã ký trên các lĩnh vực;
tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn các cấp, các kênh để không ngừng củng cố quan
hệ chính trị tin cậy đặc biệt và bền chặt; phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự,
an toàn xã hội; tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng; tăng cường phối hợp
phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm ma túy.
Hai bên cũng nhất trí tiếp tục nâng tầm hợp tác kinh tế; hỗ
trợ nhau xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với hội nhập quốc tế thực
chất, sâu rộng và hiệu quả; tăng cường kết nối hai nền kinh tế; nâng cao chất
lượng, hiệu quả các dự án viện trợ; quyết tâm tập trung tháo gỡ vướng mắc, giải
quyết dứt điểm một số tồn đọng và thúc đẩy triển khai các dự án trọng điểm như
bến cảng Vũng Áng 1, 2, 3; sân bay Nong Khang (Nỏng-Khạng); các dự án kết nối
giao thông đường bộ, đường sắt theo hướng Đông - Tây…
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam sẵn sàng hỗ
trợ Lào đảm nhận thành công các trọng trách quốc tế trong thời gian tới, trong
đó có vai trò Chủ tịch ASEAN/AIPA vào năm 2024.
Đẩy mạnh kết nối ba nền kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia
Tại cuộc gặp, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chuyển lời thăm
hỏi và lời chúc mừng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Võ Văn
Thưởng và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tới Thủ tướng Sonexay Siphandone,
Thủ tướng Hun Sen và các vị lãnh đạo cấp cao của Lào và Campuchia nhân dịp Tết
cổ truyền hai nước.
Trong bầu không khí hữu nghị và thân mật, ba Thủ tướng đã
thông báo cho nhau về tình hình phát triển kinh tế - xã hội gần đây của mỗi
nước cũng như trao đổi về các lĩnh vực hợp tác giữa ba nước và các vấn đề quốc
tế và khu vực cùng quan tâm.
Ba Thủ tướng đánh giá cao việc cùng duy trì tiếp xúc, trao
đổi cấp cao thường xuyên trên tất cả các kênh, trong đó có hình thức gặp gỡ
giữa ba Thủ tướng để không ngừng thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác
giữa ba nước; nhất trí cùng phối hợp triển khai các kết quả đạt được tại Cuộc
gặp cấp cao Việt Nam - Campuchia - Lào giữa ba nhà Lãnh đạo của ba Đảng tại Hà
Nội (tháng 9/2021); đồng thời đánh giá cao việc tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa
trong khuôn khổ “Năm Đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào 2022” và “Năm Hữu nghị
Việt Nam – Campuchia 2022”, góp phần nâng cao nhận thức của người dân, nhất là
thế hệ trẻ mỗi nước về truyền thống quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam -
Lào, Việt Nam - Campuchia.
Tại cuộc làm việc, ba Thủ tướng đã
nhất trí đẩy mạnh hợp tác kết nối ba nền kinh tế, hỗ trợ nhau xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả; tạo điều
kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động hợp tác đầu tư, kinh doanh của doanh
nghiệp ba nước; khuyến khích thương mại biên giới và phát huy hệ thống cửa khẩu
trên đất liền giữa ba nước; chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng pháp luật, quản lý
và sử dụng hiệu quả viện trợ phát triển chính thức ODA.
Ba Thủ tướng cho rằng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp
tục diễn biến phức tạp và khó lường, sự phát triển nhanh chóng và những tác
động sâu sắc của công nghệ số, mạng xã hội, ba nước cần tăng cường hợp tác,
trao đổi kinh nghiệm về lĩnh vực công nghệ thông tin.
Trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm,
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone một lần nữa chúc
mừng Campuchia đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN và AIPA 2022 và
tin tưởng chắc chắn rằng Campuchia sẽ tổ chức thành công SEA Games 32 và cuộc
bầu cử Quốc hội khoá VII sắp tới.
Thủ tướng ba nước khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ
trong các vấn đề khu vực và quốc tế, đóng góp vào việc duy trì, củng cố đoàn
kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN; nhất trí tăng cường gắn kết hợp
tác tiểu vùng với quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vì mục tiêu phát triển
đồng đều, bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển và đẩy mạnh kết nối ASEAN.
Ba Thủ tướng hoan nghênh việc ba nước nhất trí tổ chức Hội
nghị Cấp cao Quốc hội ba nước lần đầu tiên tại Lào trong năm 2023 và tổ chức
Hội nghị Cấp cao về Tam giác Phát triển CLV lần thứ 12 tại Campuchia. Thủ tướng
Phạm Minh Chính và Thủ tướng Hun Sen tiếp tục khẳng định ủng hộ Lào đảm nhiệm
thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2024.
Chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã
thành công tốt đẹp, thể hiện sự quan tâm cao nhất, phát huy vai trò chủ động,
tích cực của Việt Nam trong việc ứng phó với các thách thức, tăng cường đoàn
kết với các nước trong Uỷ hội sông Mekong, hợp tác với các nước đối tác để việc
xử lý các thách thức đảm bảo được lợi ích của các quốc gia trong lưu vực, trong
đó có Việt Nam; đồng thời thúc đẩy quan hệ với Lào và Campuchia ngày càng đi
vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.
IV. “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỨNG TRÊN HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT” - LUẬN ĐIỆU VÔ CĂN CỨ CẦN ĐẤU TRANH BÁC BỎ
Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những thủ đoạn mà các thế lực phản động,
thù địch thường xuyên tiến hành. Trong đó, luận điệu cho rằng: “Đảng Cộng sản
Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật” là hoàn toàn vô căn cứ và hết sức
nguy hiểm, cần được nhận diện, đấu tranh bác bỏ.
Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội,
các thế lực thù địch đã đăng tải, phát tán nhiều tin, bài, xuyên tạc, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Đáng chú ý trong đó có luận điệu
cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật”. Đây là luận
điệu xuyên tạc, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đòi Đảng ta phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, trực tiếp
phá hoại, vô hiệu hóa cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta: “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý, điều hành - Nhân dân làm chủ”. Từ
đó, gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm tổn hại đến mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Ðảng với Nhà nước và Nhân dân; giảm sút niềm tin của nhân dân đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, luận điệu “Đảng Cộng sản
Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật” của các thế lực thù địch là vô căn cứ,
phản khoa học, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực chất, họ đã cố tình đánh
tráo khái niệm một cách thô thiển giữa “nhà nước pháp quyền” nói chung với “nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và “nhà nước pháp quyền tư sản”. Chúng ta đều
biết, trong lịch sử xã hội, nhà nước nào cũng mang bản chất của giai cấp nhất định,
do giai cấp cầm quyền lãnh đạo, chi phối. Đơn cử như, nhà nước ở các nước tư bản
hiện nay đều do một đảng, hay liên minh đảng cầm quyền, lãnh đạo, nhưng dù có
liên minh nhiều đảng lãnh đạo thì bản chất của nhà nước vẫn do giai cấp cầm quyền
chi phối là chủ yếu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tất yếu mang bản chất
giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước
và xã hội thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước
khác hẳn về chất so với nhà nước tư sản và các hình thức nhà nước của giai cấp
thống trị, bóc lột đã có trong lịch sử - nhà nước mà quyền lực thuộc về thiểu số
giai cấp thống trị, bóc lột (chủ nô, phong kiến, tư sản). Như vậy, họ đã cố
tình cắt xén vấn đề cốt lõi nhất của nhà nước là quyền lực thuộc về nhân dân
trong bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước
xã hội chủ nghĩa là đặc trưng bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên lập trường giai cấp công nhân, với đường
lối đúng đắn thì nhà nước xã hội chủ nghĩa mới thực sự là nhà nước mang bản chất
giai cấp công nhân, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây
không chỉ là vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn bảo đảm cho nhà nước xã hội chủ
nghĩa thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trong đó có cả nhiệm vụ xây
dựng hiến pháp và pháp luật.
Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
đảng cầm quyền sau khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo đó, nội
dung cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã
hội như một tất yếu lịch sử; là sự lựa chọn của lịch sử. Phương thức cầm quyền
của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn,
định hướng cho sự phát triển của đất nước và toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực
trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời, đề ra phương hướng, nhiệm vụ và những
nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua hệ thống tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị.
Điều đó đã được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Các tổ chức Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”1. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước; phát
huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, thường xuyên tuyên truyền,
giáo dục, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đứng
trên Hiến pháp và pháp luật”, về thực chất, các thế lực thù địch đã cố ý xuyên
tạc mối quan hệ giữa Đảng và hệ thống chính trị, phủ nhận cơ chế hoạt động của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng cho rằng “Đảng lãnh đạo
nhà nước và toàn xã hội là chuyên quyền, độc đoán, vi phạm dân chủ”. Đó là sự bịa
đặt vô căn cứ, bởi trong mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là hạt nhân và là một bộ phận của hệ thống ấy. Về cơ chế vận
hành, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vận hành theo cơ chế “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ”. Cơ chế này xác định rõ
vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, thành tố của hệ thống chính
trị và giải quyết các mối quan hệ giữa các thành tố với nhau đảm bảo cho sự vận
hành thông suốt của hệ thống chính trị, thực hiện quyền lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ thực sự thuộc về Nhân dân. Đảng
và các tổ chức chính trị - xã hội đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật; các tổ chức đảng, đảng viên không đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Đảng
kiểm tra các tổ chức của Đảng và đảng viên trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước
về việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương và các nghị quyết
của Đảng trên thực tế. Hoạt động lãnh đạo của Đảng đều được thực hiện theo Hiến
pháp và pháp luật, chứ không có cái gọi là “Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trên Hiến
pháp và pháp luật”.
Ở một góc nhìn khác, luận điệu cho rằng “Đảng Cộng
sản Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật” của các thế lực thù địch đã công
khai phủ nhận sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và
tính dân tộc sâu sắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực chất,
họ tạo cớ gây mâu thuẫn, chia rẽ quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, giữa
Nhà nước với Nhân dân. Từ khi ra đời đến nay, nhất là khi trở thành đảng cầm
quyền, Đảng ta luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân. Điều đó đã được chứng minh bằng thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ, bị áp bức, bóc lột nặng nề của chế
độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới lên địa
vị làm chủ nhà nước và làm chủ xã hội. Vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền,
nhất là đối với nhân dân đã được hiến định một cách rõ ràng: “Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”2. Điều đó thể
hiện bản chất tiên phong, trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng đối với Nhân
dân về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước.
Thực tiễn hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng và 78
năm cầm quyền đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội
là nhân tố quyết định bản chất Nhà nước, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử, nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ
thống chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Ban hành nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề
cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và quyền làm chủ của nhân dân.
Có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội không hề “đứng trên Hiến pháp và pháp luật”
như luận điệu của các thế lực thù địch đã bịa đặt, rêu rao. Ngược lại, Đảng
lãnh đạo Nhà nước được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm
2013) quy định rõ trong điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”3.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cách mạng Việt
Nam luôn chứng minh tính đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội. Không ai có thể phủ nhận được sự thật hiển
nhiên đó. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân phải hết sức cảnh
giác, tỉnh táo nhận diện rõ ý đồ dã tâm của các thế lực thù địch, thường xuyên
tu dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần cùng toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn chứng minh tính đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội
Trả lờiXóa