Hiệp định Pa-ri (27-01-1973) là sự kiện lịch sử quan
trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo điều kiện cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Cuối
năm 1964, đầu năm 1965, trước những đòn tiến công mãnh liệt của quân và dân miền
Nam, cả về quân sự và chính trị, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị
phá sản, ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Ðể cứu vãn
tình thế, Mỹ thay đổi chiến lược từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục
bộ”, thực chất là “Mỹ hóa” cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Ðể lừa bịp dư luận,
chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn rêu rao “miền Bắc xâm lược miền Nam”, mở
cuộc vận động “ngoại giao hòa bình”, đòi “miền Bắc đình chỉ thâm nhập người và
phương tiện chiến tranh vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam” và “đàm phán
không điều kiện với Mỹ”.
Về
phía ta, ngay từ đầu, Ðảng ta đã nhận định: Mỹ buộc phải “Mỹ hóa” cuộc chiến
tranh vì chúng đang ở thế bị động về chiến lược. Mặc dù Mỹ đưa vào miền
Nam mấy chục vạn quân và đánh phá ác liệt miền Bắc, nhưng lực lượng so sánh giữa
ta và địch không có thay đổi lớn. Ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động
trên chiến trường, đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam
trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc
trong đấu tranh chống chiến tranh phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ.
Ðêm 31-3-1968, phát biểu ý kiến trên truyền hình Mỹ, Tổng thống Giôn-xơn
thừa nhận thất bại trong dịp Tết Mậu Thân và thông báo, đã ra lệnh chấm dứt mọi
cuộc tiến công bằng máy bay và tàu chiến chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực
phía Bắc khu phi quân sự. Ông còn cam kết, “sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con
đường xuống thang” và không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo.
Trong
tình thế thay đổi có lợi cho ta, ta chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ.
Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ chính thức bắt
đầu tại Pa-ri (Pháp). Sau gần 6 tháng đàm phán, 2 bên đã đi đến thỏa thuận về
việc Mỹ sẽ chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa kể từ ngày 31-10-1968. Đồng thời, thỏa thuận về việc triệu tập một hội nghị
tại Pa-ri để bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, gồm
các bên: Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, Mỹ và
chính quyền Sài Gòn.
Ngày
25-01-1969, Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn ta “vừa đánh, vừa đàm” với Mỹ. Hội nghị
Pa-ri là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, giữa một
bên là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại
yếu về chính trị, tinh thần; với một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, có thế mạnh
tuyệt đối về chính trị - tinh thần và chính nghĩa. Hội nghị còn là cuộc đối chọi
giữa hai nền ngoại giao, nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường với nền ngoại
giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Bởi vậy, đây là một cuộc đấu quyết
liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý và mưu lược,…
khác nhau.
Chấp
nhận đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, ta và đối phương có những mục đích, đòi hỏi đối
lập nhau: Ta yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân và vũ khí
khỏi miền Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam; phía Mỹ cũng nói muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng lại đòi miền
Bắc và Mỹ cùng rút quân; đòi khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền
Sài Gòn, nghĩa là Mỹ tiếp tục thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, điều
Mỹ không làm được trên chiến trường.
Lập
trường của bốn bên, mà thực chất là của hai bên Việt Nam và Mỹ, ở giai đoạn đầu
rất mâu thuẫn và cách xa nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt
trên bàn Hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời
gian này, trên chiến trường, cả ta và Mỹ đều tìm mọi cách để giành thắng lợi
quyết định về quân sự, nhằm thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực
cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh dựa trên thế mạnh mà hai phía đang giành
giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả.
Những
thắng lợi quân sự của ta trong năm 1971, 1972, với các chiến dịch Đường 9 - Nam
Lào, Đông Bắc và Đông Nam Cam-pu-chia, Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,
Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ,… đã khiến quân Mỹ - ngụy thiệt hại nặng nề, từng
bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tạo thế thuận lợi cho
ta trên bàn đàm phán.
Ngày
8-10-1972, phái đoàn Việt Nam đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và đề nghị phía Mỹ thảo luận để đi đến ký kết.
Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí, nhưng đến ngày 22-10-1972 phía Mỹ lật
lọng, viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Ngày
6-4-1972, Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở
miền Nam và trở lại đánh phá miền Bắc. Quyết định quay trở lại đánh phá miền Bắc
Việt Nam, Tổng thống Mỹ Ních-Xơn hy vọng sẽ bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn
tiếp tế từ bên ngoài vào, làm cho miền Bắc suy yếu và buộc phải thương lượng với
Mỹ trên thế thua.
Đánh
giá đúng tình hình, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam đã chỉ đạo tập trung đập tan những cố gắng quân sự cuối cùng của Mỹ, buộc Mỹ
phải ký Hiệp định Pa-ri. Năm 1972 các cuộc đàm phán giữa hai bên dần đi vào thực
chất, càng về cuối càng có những chuyển biến quan trọng. Cuộc gặp riêng từ ngày
8 đến ngày 12-10-1972 là mốc đánh dấu bước chuyển căn bản của cuộc đàm phán.
Trong cuộc gặp này, phía Việt Nam đưa ra dự thảo Hiệp định hoàn chỉnh và
đề nghị Mỹ ký ngay vào đó. Hai bên thỏa thuận ngày 31-10-1972 sẽ ký Hiệp định
chính thức tại Pa-ri. Tuy nhiên, ngày 22 và ngày 23-10-1972, Mỹ đòi hoãn ngày
ký để thảo luận thêm.
Trước
những diễn biến mới của tình hình, Quân ủy Trung ương nhận định: Mỹ sẽ tập
trung đánh phá ác liệt từ Thanh Hóa trở vào, đồng thời có thể sẽ đánh phá trở lại
miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả dùng B-52 đánh phá ồ ạt vào Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố khác. Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, đúng như ta đã dự kiến, sau ngày 23-10-1972, đặc biệt là
sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ (ngày 8-11-1972), Ních-xơn ráo riết chuẩn bị bước
phiêu lưu quân sự mới. Mỹ trở giọng đe dọa, phá ngang, làm cho cuộc đàm phán tại
Hội nghị Pa-ri bị gián đoạn; đồng thời tập trung lực lượng không quân ở mức cao
nhất để đánh phá, ngăn chặn các tuyến giao thông từ nam vĩ tuyến 20 trở vào, trọng
điểm đánh phá là các tuyến vận chuyển hàng hóa vào chiến trường miền Nam. Ngày
14-12-1972, Tổng thống Mỹ Ních-Xơn quyết định mở cuộc tập kích đường không chiến
lược mang tên “Lai-nơ-bếch-cơ II”, trong đó sử dụng chủ yếu các “siêu pháo đài
bay B-52” đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền
Bắc, từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972. Ních-xơn hy vọng, với sức mạnh của không lực,
Mỹ sẽ đạt được mục đích. Nhà sử học người Mỹ Giơ-lin-gơ-ri-nút tiết lộ:
Ních-xơn, Kít-xinh-giơ và 1.700 nhân viên phi hành B-52 thực hiện cú đấm chiến
lược này đều có niềm tin mãnh liệt ban đầu về kết quả chiến đấu. Với cả guồng
máy đồng bộ và tính năng vũ khí như thế, Mỹ cho rằng, hệ thống ra-đa trinh sát
phòng không và tên lửa “SAM -2” của Bắc Việt Nam cũng không thể nào “với tới” được.
Tổng thống Mỹ Ních-xơn còn ngạo mạn cho rằng, B-52 bay vào Hà Nội sẽ như một cuộc
dạo chơi. Bởi theo họ, trong nhiều năm nay, ở Nam Việt Nam B-52 là con át chủ
bài giữ vai trò quyết định, các vũ khí phòng không của Việt Cộng không có tác dụng
gì với B-52...
Thế
nhưng, với ý chí và trí tuệ của con người Việt Nam, dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng, quân và dân miền Bắc đã kịp thời giáng trả đế quốc Mỹ những
đòn đích đáng để giành thắng lợi quyết định về quân sự. Cuộc đụng đầu lịch
sử trong 12 ngày đêm tháng Chạp năm 1972 được ví là trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ
trên không”. Trong 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập
kích chiến lược quy mô lớn của đế quốc Mỹ, với kết quả: bắn cháy 81 máy bay,
trong đó có 34 máy bay ném bom chiến lược B-52 và 5 máy bay F.111, nhiều B-52 bị
bắn rơi ngay tại Thủ đô Hà Nội; bắt sống 43 phi công, trong đó có 33 phi công
lái B-52.
Thất
bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam và thất bại trong cuộc tập kích đường
không chiến lược nhằm vào Hà Nội, Hải phòng và một số thành phố, thị xã ở miền
Bắc Việt Nam đã làm cho ý chí đàm phán trên thế mạnh của Nhà Trắng bị đè bẹp,
buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngừng ném bom và bắn phá từ vĩ
tuyến 20 trở ra kể từ ngày 30-12-1972. Ngày 6-01-1973, Tổng thống Mỹ Ních-xơn
chỉ thị cho cố vấn đặc biệt của mình là Kít-xinh-giơ rằng, trong đàm phán sắp tới,
Mỹ cần đạt được một giải pháp, cho dù đối phương có đưa ra những điều kiện khắt
khe, đồng thời nhấn mạnh việc sẵn sàng chấp nhận văn bản dự thảo Hiệp định mà
hai bên đã thỏa thuận vào tháng 10-1972. Ngày 8-01-1973, Mỹ buộc phải tiếp tục
nối lại đàm phán trên thế yếu tại Hội nghị Pa-ri. Ngày 15-01-1973, Chính phủ Mỹ
tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc. Ngày 23-1-1973, Hiệp định và các
nghị định thư được cố vấn đặc biệt của ta là Lê Đức Thọ và cố vấn Mỹ
Kít-xinh-giơ ký tắt. Thất bại nặng nề của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc đã dập tắt những cố gắng
quân sự cuối cùng của họ, buộc họ phải ký “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam” vào ngày 27-01-1973.
Với
thắng lợi của Hiệp định Pa-ri năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ
cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu
“đánh cho ngụy nhào”. Đây cũng là tiền đề để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Hiệp
định Pa-ri năm 1973 phản ánh ở mức cao những thắng lợi về quân sự và xu thế cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ. Ta đã tranh
thủ được sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
không liên kết và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, từ đó hình thành
trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự
hình thành của mặt trận này đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế; kết hợp ngoại
giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.
Thắng
lợi của Hiệp định Pa-ri năm 1973 đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc của nhân dân Lào và Cam-pu-chia.
Hiệp
định Pa-ri năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân
dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của dân tộc. Cội nguồn thắng lợi tại Hội nghị Pa-ri là tinh thần
quyết chiến quyết thắng, ý chí đấu tranh quật cường, bền bỉ, nhằm bảo vệ chân
lý, chính nghĩa, lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh
này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở chính nghĩa của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pa-ri và Hiệp định Pa-ri về Việt Nam
mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ
của con người và nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô
giá.
Hội
nghị Pa-ri về Việt Nam còn là cuộc đấu tranh kiên cường vì các quyền cơ bản của
dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong Hiệp định - văn bản pháp lý toàn diện, đầy
đủ nhất. Trong đó, Mỹ buộc phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, điều mà họ đã cố tình lẩn tránh ở Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954. Đồng thời, Mỹ buộc phải rút hết quân về nước, trong khi ta
duy trì được hoàn toàn lực lượng, khiến so sánh lực lượng trên chiến trường
nghiêng hẳn về ta. Điều quan trọng nữa là, Hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm
mưu can thiệp trở lại của Mỹ khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn
toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét