Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị,
trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam).
Thời gian đã qua đi gần 73 năm, nhiều chi tiết
nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực.
Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể
hiện trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945. Đây là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho
việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu “Độc lập
- Tự do - Hạnh phúc”, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự
nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân
tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, là
tài sản quốc gia, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ
thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý
vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn
thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.
Chúng ta đã thấy được
rõ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn độc lập. Trong đó Chủ
tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai
bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Điều này cần phải hiểu và được lý giải rõ
như sau để thấy được trí tuệ thiên tài của Người:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn
hóa kiệt xuất như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy
với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn
minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư
sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, là
dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong đó đã khẳng định những quyền cơ bản
của con người. Đó là "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” … “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi
được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản Tuyên
ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh
đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc
cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành
được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại,
đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người
thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn
cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi
ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của
nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng
định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể
hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn
Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không
chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới
nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập,
giành quyền dân tộc cơ bản của mình.
Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với
thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của
nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm
riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể
hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến
nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem
lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.
Thời gian đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh
to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện
lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”.
Ngày Quốc khánh đang đến gần, mỗi chúng ta là
những người học viên – đào tạo giảng viên Khoa học xã hội nhân văn luôn nhận
thức sâu sắc, đầy đủ về ý nghĩa lịch sử, thời đại của Bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1945. Ra sức học tập, rèn luyện để trở thành người giảng viên ưu tú trong
quân đội. Đồng thời tích cực đấu tranh với các quan điểm, sai trái chống phá sự
nghiệp cách mạng nước ta.
Thời gian đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn
Trả lờiXóa