Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

NVD40 - Phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ và phát triển xã hội để đòi đa nguyên, đa đảng của các thế lực thù địch

 

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả trong thời kỳ giành, giữ chính quyền và công cuộc xây dựng, phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức rõ vấn đề đó, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam, hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, các thế lực thù địch chú trọng tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bên cạnh những hoạt động như tác động, chuyển hóa; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ Đảng thì một mũi tấn công trọng yếu, thường xuyên được các thế lực thù địch tiến hành thời gian vừa qua là đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng với nhiều luận điệu “tấn công trực diện” vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Mục đích của các thế lực thù địch là qua hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu của sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào con đường chống đối lại Đảng, hình thành nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng.

Với mục đích đó, các thế lực thù địch đã tung ra hàng trăm, hàng nghìn các luận điệu khác nhau tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam như Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng” hay “Đa nguyên, đa đảng”  là biện pháp duy nhất để có dân chủ thực sự và phát triển xã hội?

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ và chế độ chính trị, tiếp cận ở khía cạnh lịch sử và đương đại để phân tích, bình luận về quan điểm nêu trên, luận giải những vấn đề cần phải làm trong xây dựng Đảng, bảo đảm rằng Đảng Cộng sản là chính đảng cầm quyền thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và đưa đất nước phát triển là giá trị cốt lõi, tiền đề cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam.

Về quan điểm: Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”?

Cần thấy rằng, “đa nguyên, đa đảng” là sản phẩm của nhà nước tư sản nhằm duy trì bản chất của giai cấp tư sản (số ít trong xã hội thuộc giai cấp bóc lột). Mục đích chính trị của đa nguyên, đa đảng là nhằm thủ tiêu chế độ công hữu, duy trì chế độ tư hữu. Do đó, nhà nước tư sản mặc dù là kiểu nhà nước tiến bộ trong lịch sử, song do giai cấp tư sản nắm địa vị thống trị nên vẫn là kiểu nhà nước của thiểu số bóc lột đa số giống như hai kiểu nhà nước trước đó (nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến).

Nhà nước tư sản ra đời từ sau thắng lợi của cách mạng tư sản, là nấc thang tiến bộ trong lịch sử nhân loại, phá bỏ chế độ phong kiến, hình thành nền dân chủ tư sản, thông qua lý luận chính thể trên cơ sở Hiến pháp (Hiến chính) tạo nên hình thức chính thể mới là quân chủ lập hiến (quân chủ lập hiến là sản phẩm của cách mạng không triệt để, có sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc, phong kiến). Vua không còn quyền lực vô biên như ở nhà nước phong kiến mà bị ràng buộc bởi quy định mang tính chuẩn mực của Hiến pháp. Đồng thời, cùng với thắng lợi của cách mạng tư sản và để thích ứng với sự phát triển của kinh tế, đa số nhà nước tư sản đều xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ (cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng tính), thực hiện nguyên tắc tam quyền phân lập và đa đảng cạnh tranh. Trong nhà nước tư sản, bầu cử được xem là một biện pháp dân chủ để thông qua đó người dân cử người đại diện cho mình tham gia các công việc của nhà nước. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra: vì sao ở những nhà nước tư sản với nền chính trị “đa nguyên, đa đảng”, bầu cử dân chủ mà đại diện cho nhân dân lao động chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội lại rất khó trúng cử hoặc không thể chiếm đa số trong nghị viện. Các chính sách phát triển cho đa số người lao động, người nghèo lại khó được nghị viện thông qua như vậy (ví dụ trường hợp Obamacare không phải là cá biệt). Thực trạng đó cho thấy, đại diện các đảng phái có chân trong nghị viện sẽ thực hiện quyền lập pháp, quyết định chính sách có lợi cho đảng mình mà không phải cho đông đảo người lao động; pháp luật là công cụ cho giai cấp tư sản không chỉ quản lý đất nước mà còn thực hiện biện pháp bóc lột giai cấp.

Như vậy, đa nguyên, đa đảng không phải là phương thức để mang đến dân chủ thực sự với ý nghĩa dân chủ là giá trị cốt lõi để người dân được trực tiếp, gián tiếp tham gia các hoạt động nắm giữ quyền lực công, mang lại việc thụ hưởng quyền đầy đủ. Đây chính là lý do để thấy rằng trong các nhà nước tư sản đang tồn tại chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì vẫn phải đối mặt với chính trị bất ổn, kinh tế suy thoái, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân không được bảo đảm. Có thể thấy được thực trạng này ở những nhà nước tư sản trên thế giới như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và thậm chí là Mỹ, Anh, Pháp. Như vậy, trong nhà nước tư sản, người dân không được làm chủ, mà các đảng phái tranh giành quyền lực chính trị, thâu tóm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước với mục đích bóc lột càng nhiều càng tốt nhân dân lao động thông qua các chính sách thuế, chính sách phát triển khác, thì đó là “đảng chủ” chứ không phải là dân chủ.

Trong khi đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời sau thắng lợi của cách mạng vô sản, là kiểu nhà nước chưa từng có trong lịch sử và là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, ra đời với sứ mệnh bảo vệ bản chất giai cấp của nhà nước vô sản: do nhân dân lao động nắm quyền, bảo vệ quyền lợi cho đông đảo người dân trong xã hội, không có áp bức, bóc lột giai cấp khác trong xã hội. Vì thế, V.I.Lênin gọi đây là “nhà nước nửa nhà nước”. Xét về lý luận, kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước có nền dân chủ ưu việt hơn dân chủ tư sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đưa người dân từ giai cấp bị trị, bị bóc lột lên vị trí nắm quyền quản lý và điều hành đất nước.

Như vậy, có thể trả lời ngay rằng, căn cứ vào lý luận nhà nước và hình thức chính thể, quan điểm “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng” không có căn cứ khoa học.

Với quan điểm: “Đa nguyên, đa đảng” có phải là biện pháp duy nhất để có dân chủ thực sự và phát triển xã hội?

Dân chủ là giá trị của văn minh nhân loại. Dân chủ gắn liền với mỗi dân tộc, mỗi nhà nước, mỗi thể chế chính trị, thể hiện giá trị của tự do, công bằng và bình đẳng. Dân chủ gắn với cá nhân thể hiện giá trị của quyền cơ bản của con người: quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân chủ gắn với các thiết chế chính trị thể hiện chế độ, hình thức nhà nước, phương pháp lãnh đạo và quản lý xã hội - là tuyên bố của mỗi nhà nước, mỗi đảng cầm quyền trước nhân dân; dân chủ là động lực, mục tiêu của sự phát triển trong công cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người. Suy cho cùng, dân chủ vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp để Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đất nước hướng đến bảo đảm các quyền và lợi ích cho số đông người dân.

Trong khi đó, “đa nguyên, đa đảng” là biểu hiện của chế độ chính trị có trong lịch sử phát triển của cả nhà nước tư sản và không xa rời đối với kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chế độ chính đảng cầm quyền của chủ nghĩa tư bản thông thường là đa đảng, chế độ một đảng chỉ là ngoại lệ đặc thù. Chế độ đa đảng tư bản chủ nghĩa chủ yếu có ba loại hình thái: chế độ một đảng thống trị, cầm quyền lâu dài (Đảng Dân chủ tự do của Nhật Bản); chế độ hai đảng thống trị, thay nhau cầm quyền (Mỹ: Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Anh: Đảng Bảo thủ và Công Đảng...); chế độ đa đảng thống trị, đa đảng liên minh cầm quyền (Italia...).

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, về lý luận và thực tế không phủ nhận chế độ đa đảng. C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã đề cập đến việc Đảng Cộng sản cần phải liên hợp với các chính đảng công nhân khác, các chính đảng của giai cấp tiểu tư sản, thậm chí phải liên hợp với cả một bộ phận tiến bộ của giai cấp tư sản. Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga cũng không thực hiện chuyên chính một Đảng. Sau thắng lợi của cách mạng, nước Nga đều do liên minh hai đảng hoặc ba đảng cầm quyền mà hoàn toàn không phải một đảng cầm quyền. Hiện nay, mặc dù đa số các quốc gia xã hội chủ nghĩa thực hiện chế độ một đảng cầm quyền, nhưng cũng có những nước như Trung Quốc đã và đang thực hiện chế độ đa đảng (song ở Trung Quốc thì Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền). Ở Việt Nam, tháng 8-1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này còn Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, và đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự giải tán. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy, chế độ đa đảng không phải chỉ tồn tại trong nhà nước tư sản mà nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có thể sử dụng hình thái chính trị này. Song điều quan trọng là duy trì chế độ đa đảng không phải là con đường duy nhất để có được dân chủ thực sự cho người dân.

Chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng trong hệ thống chính trị có phát huy được dân chủ hay không phụ thuộc nhiều vào phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đó. Thực tế phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nhà nước và phương thức lãnh đạo của đảng sẽ trả lời cho việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với bộ máy nhà nước. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo của đảng (phương thức cầm quyền) sẽ quyết định đến tính duy nhất của đảng trong việc lãnh đạo đất nước và toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này cần thấy rằng, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa không giống nhau vì mục tiêu, bản chất giai cấp sở dĩ đã không giống nhau.

Ở nhà nước tư sản, trong chính thể quân chủ lập hiến hoặc cộng hòa đại nghị, đảng nào có số ghế chiếm đa số trong nghị viện thì chủ tịch đảng đó sẽ đồng thời là thủ tướng nên hiện tượng thủ tướng độc lập ban hành và thực hiện chính sách là phổ biến. Việc trình chính sách lên nghị viện và được thông qua là dễ dàng vì đa số ghế của nghị viện thuộc đảng đó. Nếu không, do nghị viện nắm quyền giám sát, có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm dẫn đến thủ tướng và các thành viên của chính phủ phải từ chức và ngược lại, nghị viện có thể bị giải tán để lại bầu lại nghị viện. Đây là phương thức lãnh đạo phổ biến dẫn đến sự mất ổn định xã hội lớn cả trong hai trường hợp nêu trên xảy ra.

Trong khi đó, ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản được khẳng định ở đường lối, chủ trương, công tác tổ chức, cán bộ và biện pháp giáo dục, thuyết phục. Tuy nhiên, sự đổ vỡ của khối các nước xã hội chủ nghĩa lại chỉ ra rằng, sự không phân biệt giữa đảng cầm quyền và chính quyền, sự duy trì đảng trị thay cho pháp trị dẫn đến hiện tượng Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoạt động mang tính hình thức, còn Bộ Chính trị Trung ương Đảng mới là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo đó, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu có nguyên nhân do phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền còn xa rời thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa nên việc cả đảng viên và nhân dân từ bỏ thể chế đó đã xảy ra.

Điều này cho thấy dân chủ thực sự được quyết định bởi phương thức lãnh đạo của đảng, cách thức lãnh đạo nhân dân; nhà nước thực hiện và duy trì bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa chứ không phụ thuộc vào thể chế chính trị đó là đa nguyên, đa đảng hay duy nhất một đảng. Bởi nhiều đảng song không có chính đảng có lý tưởng và mục đích chính trị đúng đắn như Đảng Cộng sản thì nhiều đảng là vô nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không được bảo đảm. Ngược lại, một đảng có mục tiêu, có lý tưởng chính trị đúng đắn nhưng không có phương pháp lãnh đạo đúng đắn, không tự thường xuyên chỉnh đốn đảng thì lý tưởng của đảng đó chỉ nằm trên giấy.

Chân lý đó được kiểm nghiệm qua thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình cách mạng. Bằng năng lực và sự nỗ lực quên mình vì lợi ích chung, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn thực sự là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới. Mặc dù có hạn chế, khuyết điểm, song Đảng Cộng sản vẫn được nhân dân giao phó trách nhiệm ngày càng cao. Thông qua Hiến pháp, nhân dân không chỉ thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội mà còn là sự giao trách nhiệm cho Đảng. Điều đó cho thấy nguyên lý chủ quyền nhân dân là cơ sở để nhận diện vai trò của Đảng Cộng sản, nó đòi hỏi sự thống nhất về lợi ích và ý chí giữa đảng cầm quyền và nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội có tính hợp pháp, tính chính đáng nên muốn bảo đảm vị thế chính trị đó, Đảng luôn chú trọng tới đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đây là biện pháp cần thiết mang tính cấp bách.

NVD40 - Phản bác những luận điệu xuyên tạc về chủ trương thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

 

Lợi dụng hội nghị Trung ương 5 khoá XIII của Đảng ta thảo luận, thông nhất cao về việc thành lập ban chỉ đạo cấp Tỉnh về phòng chống tham nhũng, tiêu cực các đối tượng xấu đã đăng tải, chia sẻ những thông tin xuyên tạc nhằm hạ thấp vai trò của ban chỉ đạo như: “ việc thành lập ban chỉ đạo cấp Tỉnh, Thành có giúp xoá được tham nhũng, tiêu cực”. Đặc biệt có nội dung cho rằng “ chính quyền sinh ra tham nhũng. Chính sách nhất nguyên chính trị là nguyên nhận gây ra”. Đây rõ ràng là những luận điệu suy diễn, xuyên tạc vô căn cứ nhằm bôi nhọ Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc chủ trương, quyết tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta.

Trước hết cần khẳng định rằng, tham nhũng không phải là “sản phẩm riêng” của Việt Nam hay của một nước nào mà nó diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, là một vấn nạn mang tính toàn cầu. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử, xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự xuất hiện nhà nước. Tham nhũng luôn song hành cùng quyền lực. Do đó, tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ xã hội thực tế cho thấy nhiều nước phát triển đa nguyên chính trị vẫn đã và đang tồn tại tham nhũng với những biểu hiện và mức độ khác nhau, tùy thuộc bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn phát triển.

Ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định tham nhũng là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm” và lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt vấn đề phòng, chống tham nhũng. Đảng ta xác định phòng, chống tham nhũng là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chính vì vậy, đây không chỉ là nhiệm vụ của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của tất cả các cơ quan, đoàn thể, địa phương. Trong bối cảnh tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn chưa bị đẩy lùi và còn có chiều hướng diễn biến phức tạp, chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết vào lúc này, thể hiện quyết tâm cao hơn trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng.

Hai là thực tế cho thấy, vấn đề tham nhũng, tiêu cực không phải chỉ ở cấp Trung ương mà xảy ra từ cấp xã đến huyện, tỉnh. Do đó, việc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ để khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” mà còn được xem như là “cánh tay nối dài của Trung ương” nhằm giải quyết một cách kịp thời những vấn đề còn bức xúc trong dân, những vấn đề còn tồn đọng, tiêu cực, tham nhũng ở địa phương. Đồng thời, giúp cho công tác đấu tranh chống tham nhũng liền mạch, chặt chẽ, thống nhất theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 87.000 cán bộ, đảng viên, trong đó có trên 32.000 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; hơn 30 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang). Năm 2021, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật đối với 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xử lý nhiều cán bộ cấp cao vi phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.

Bà là Thêm một “cánh tay nối dài của Trung ương” về phòng chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng được thành lập lần này sẽ hoạt động trên các quy định, quy chế  cụ thể. Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một lĩnh vực khó, nhạy cảm và cần quyết tâm chính trị rất cao nên thành phần Ban Chỉ đạo phải gồm những người đứng đầu ở cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức hữu quan giữ vai trò trọng yếu ở địa phương. Trưởng Ban Chỉ đạo phải chịu trách nhiệm trước Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương về công tác phòng, chống tham nhũng ở địa phương. Nếu người đứng đầu các địa phương thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thì công tác này sẽ đi vào thực chất, làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin trong nhân dân. Ngược lại, nếu người đứng đầu không xứng đáng, không làm được thì sẽ có cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Bốn là: Muốn ngăn chặn được tham nhũng, tiêu cực thì phải nhốt quyền lực của người lãnh đạo các cấp trong lồng cơ chế. Chính vì vậy ở mỗi Tỉnh, Thành phố phải có cơ quan ban chỉ đạo giám sát, xử lí làm cho cán bộ không dám tham nhũng, tiến tới không thể tham nhũng và cuối cùng là không cần thì công cuộc diệt giặc nội xâm của Đảng, của Nhân dân mới có thể hoàn thành. Từng bước xây dựng Đảng ta vững mạnh thật sử là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

          Như vậy, qua phân tích, đánh giá, có thể thấy rõ rằng, những luận điệu suy diễn, xuyên tạc chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vừa được Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII thông qua của một số cá nhân, tổ chức thực chất là nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam; phủ nhận quyết tâm, nỗ lực chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta.

Chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã nhận được sự đồng thuận rất cao cả trong Đảng và Nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Đây là việc làm cần thiết, đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế và chắc chắn sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, tạo sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta theo đúng tinh thần: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”./.

 

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2022

NVD39 - KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH BÁC BỎ NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI

 

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với quân đội luôn luôn nhất quán đó là: Đảng lãnh đạo Quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Đây là nguyên tắc cơ bản, bất di, bất dịch, dựa trên cơ sở chính trị, lịch sử và pháp lý vững chắc trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong suốt 78 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Quân đội ta luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội xuyên suốt từ khi thành lập đến nay là thực tiễn sinh động, không thể phủ nhận.

Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội, xuất hiện những luận điệu cho rằng: “quân đội là của toàn xã hội”, “quân đội đứng ngoài giai cấp”; chúng viện dẫn, ở thể chế chính trị tư sản với chế độ đa đảng, quân đội không do đảng nào lãnh đạo để cổ súy “quân đội trung lập về chính trị, không chịu sự lãnh đạo của bất cứ đảng phái chính trị nào”...vv. Đây là mớ luận điệu mơ hồ về giai cấp, phản động về chính trị, xuyên tạc và lừa bịp về nguồn gốc, bản chất của quân đội. Nhưng lại chính là mục tiêu cơ bản trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xuyên tạc, hô hào đòi “Phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội và lực lượng vũ trang, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là âm mưu vô cùng thâm độc và xảo quyệt, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhằm làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị; để chúng tiến tới vô hiệu hóa quân đội, làm mất đi chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trên các diễn đàn, blog, fanpage chuyên chống phá như VOA, RFA, …, các thế lực thù địch, chống phá dùng nhiều chiêu thức, với những giọng điệu, cách diễn đạt khác nhau. Khi thì chúng đứng hẳn về phía đối lập, trực diện chống phá, khi thì như “người trong cuộc”, “vì nước, vì dân”, thể hiện thái độ “thiện chí” xây dựng Quân đội, chúng ra sức rêu rao rằng: Quân đội “là của quốc gia, dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, lực lượng chính trị nào”; Quân đội đặt dưới sự lãnh đạo độc tôn của Đảng là “mù quáng”; Quân đội chỉ trung thành với lợi ích của quốc gia - dân tộc, với nhân dân. Từ đó, chúng kêu gọi, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam”; đòi bỏ quy định tại Điều 65 Hiến pháp 2013, “Lực lượng vũ trang Nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước…”… Chúng ôm mộng tưởng: sẽ làm cho Quân đội ta mất phương hướng, mục tiêu chiến đấu, “không biết bảo vệ ai”, “chống lại ai”; Đảng không thể nắm, không thể “điều hành” được Quân đội, đặc biệt trong những tình huống phức tạp, thậm chí có thể trở thành “đối tượng” trực tiếp của chính công cụ bạo lực này.

Quan điểm, nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo Quân đội” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng, hành động của Hồ Chí Minh và Đảng ta về xây dựng Quân đội cách mạng. Quân đội nhân dân Việt Nam - do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện - ngay khi mới ra đời, đã mang bản chất giai cấp công nhân, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc cũng chính là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội đã thực sự trưởng thành, là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân đội ta luôn vững vàng về lập trường chính trị, tư tưởng; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội đã cùng với nhân dân làm nên những chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu”: tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, đánh thắng hai đế quốc lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và độc tôn lãnh đạo Quân đội; Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song hành ngay từ khi thành lập Quân đội ta đến nay. Dưới sự lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã viết nên truyền thống tốt đẹp “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Hình ảnh đội quân “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”; khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng thể hiện sinh động trong thực tiễn chiến đấu, công tác và xây dựng của Quân đội ta suốt 78 năm qua.

Luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội là trò lừa bịp, vô căn cứ, phản động về chính trị, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn lịch sử. Có thể thấy, từ xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội; tìm mọi cách xúc xiễm, bôi nhọ phẩm chất tốt đẹp Quân đội Nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch không ngoài ý đồ kích động chia rẽ quân đội với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; nhằm làm cho quân đội ta “chệch hướng” mục tiêu chính trị trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, để chúng dễ bề thâu tóm... Những luận điệu, chiêu trò ấy sẽ ngày càng tinh vi, biến ảo hơn trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng nói chung, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại nói riêng. Trước yêu cầu mới, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh mạnh mẽ với những quan điểm, luận điệu, chiêu trò chống phá. Mọi yêu sách đòi xóa bỏ vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; mọi luận điệu đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, và “kiến nghị” Quân đội không phải trung với Đảng, mà chỉ cần trung với nước, với dân, với lợi ích của quốc gia - dân tộc, đều chỉ là trò “giả nhân, giả nghĩa” nhằm làm suy yếu chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội để dễ bề thực hiện âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành được, là phi lý, phải kiên quyết bác bỏ./.

 

 

NVD39 - NGỜI SÁNG DANH HIỆU “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về “Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình tình hình mới” (gọi tắt là Nghị quyết số 847) có vị trí, vai trò rất quan trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”. Nghị quyết số 847 có 3 thành tố hay là 3 cụm từ khóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định và tác động lẫn nhau, đó là: 1. Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; 2. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân; 3. Đặt “trong tình tình hình mới”; trong đó, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là mệnh đề “gốc”, hàm chứa tư tưởng nền tảng, chi phối quan điểm chỉ đạo, nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Sự ra đời của Nghị quyết số 847 là yêu cầu khách quan, đòi hỏi bức thiết của thực tiễn xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nhằm giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới trước tác động của chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện của nó.

Đây là một Nghị quyết chuyên đề, phản ánh quyết tâm chính trị rất lớn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; đồng thời, truyền báo thông điệp ngắn gọn, sâu sắc đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ: Trong bối cảnh tình hình mới, cách duy nhất để giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và mọi biểu hiện của nó; không để chủ nghĩa cá nhân có điều kiện nảy nở, bùng phát, xâm hại đến lợi ích tập thể; không để cán bộ, đảng viên, chiến sĩ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tham nhũng, quan liêu, lãng phí và tiêu cực. Tính kiên quyết, quyết liệt trong đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân thể hiện ở chỗ: Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng không bao giờ nhân nhượng, lùi bước hoặc thỏa hiệp trước bất cứ hành vi sai trái, đề cao chủ nghĩa cá nhân, làm ảnh hưởng đến danh hiệu, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; luôn đề cao cảnh giác trước mọi biểu hiện tiêu cực xã hội, không để nó xâm nhập vào Quân đội, tác động, ảnh hưởng đến mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội.

Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, vừa cấp thiết trước mắt, vừa thường xuyên, cơ bản và lâu dài nhằm xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, mẫu mực; xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Nếu vì một lý do nào đó, quân nhân vi phạm kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước, thì hiện tượng tiêu cực ấy sẽ làm suy giảm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, cơ quan, đơn vị không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là việc làm trước, chuẩn bị kỹ về mọi mặt, nhất là mặt tâm lý, tâm thế, giúp cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chất đề kháng tốt để “miễn dịch” trước các loại vi rút do chủ nghĩa cá nhân sinh ra.

Đây không chỉ là phương châm chỉ đạo hành động “xây” và “chống” nhằm nâng cao trình độ nhận thức, giúp cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ra sức học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà còn là giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, gắn chặt lý luận với thực tiễn; thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng với tính khoa học, Quân đội với nhân dân, làm cho Quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Nghị quyết số 847 là thước đo phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ theo chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; thể hiện độ sâu việc quán triệt chủ trương, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, làm cho Quân đội luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, khẳng định giá trị và ý nghĩa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” - Danh hiệu cao quý được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn vinh, dành riêng cho Quân đội, gắn với tên tuổi lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu, đã trở thành giá trị văn hóa quân sự, được kết tinh từ những đặc trưng sâu sắc nhất của bản chất, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam, được cán bộ, chiến sĩ gìn giữ, bồi đắp và nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh./.

 


 

NVH40 - TỰ HÀO DANH XƯNG “BỘ ĐỘI CỤ HỒ”

 

            Trên thế giới, chưa một nước nào, người lính lại được vinh dự gắn với tên một Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ của mình như ở Việt Nam. Danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ” thực sự là sự sáng tạo của nhân dân ta, là nét độc đáo trong văn hóa Việt Nam và lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

          “Bộ đội Cụ Hồ” là giá trị tiêu biểu trong dòng chảy của nền văn hóa Việt Nam, thời đại Hồ Chí Minh. Cái hay cái đẹp của dạnh xưng “Bộ đội Cụ Hồ” là ở chỗ nó được vun đắp, phát triển phù hợp với thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          “Bộ đội Cụ Hồ” - một giá trị văn hóa, một danh hiệu vinh dự do nhân dân khen tặng. Từ đội quân chủ lực đầu tiên là “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và “Quân giải phóng” thời Tiền khởi nghĩa đến “Vệ quốc đoàn”, “Quân đội quốc gia”, “Quân đội nhân dân” thời kì chống Pháp, và “Quân giải phóng miền Nam” thời kì chống Mỹ, “Quân tình nguyện Việt Nam” tại Lào và Campuchia trong chiến tranh Đông Dương, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam từ đời cha đến đời con nối tiếp truyền thống đi đánh giặc cứu nước đã hun đúc nên một phẩm chất cao đẹp, một bản lĩnh mà nhân dân ta trìu mến gọi là “Bộ đội Cụ Hồ” và nhân dân nước bạn gọi là “Đội quân Nhà Phật”

          “Bộ đội Cụ Hồ” là bộ đội có mối đoàn kết quân với dân như cá với nước. Một quân đội sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ lợi ích của nhân dân, giúp dân khi có thiên tai, bão lũ, dịch bện xẩy ra.

          “Bộ đội Cụ Hồ” là một danh hiệu vinh dự và trách nhiệm. Một danh hiệu cao quý do nhân dân khen tặng. Đó là danh hiệu của lòng dân. Được dân gọi là “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là vinh dự lớn lao, là phần thưởng cao quý nhất đối với quân đội ta, là sự xác nhận của nhân dân rằng: Quân đội ta thật sự là Quân đội nhân dân, thật sự là quân đội của dân, do dân, vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NVH40 - Sống mãi chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. “Có vũ khí Liên Xô, chúng ta đánh thắng Mỹ”

 

        Cách đây tròn 50 năm, cả thế giới phải kinh ngạc chứng kiến “Pháo đài bay B52” mệnh danh “bất khả chiến bại” của không quân Hoa Kỳ bị đập tan trên bầu trời Hà Nội. Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tạo nên bước ngoặt lịch sử, buộc người Mỹ phải trở lại bàn đàm phán ký kết Hiệp định Paris và rút khỏi Việt Nam.

          Chiến tranh tuy đã lùi xa nhưng ký ức về những ngày này vẫn còn nguyên vẹn trong lòng người dân Hà Nội. Đặc biệt đối với những Anh hùng, cựu sĩ quan từng tham gia chiến đấu, bắn rơi máy bay Mỹ, giữ bầu trời Thủ đô mãi xanh. Chuẩn bị cho cuộc đọ sức cuối cùng

          Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (AHLLVTND) Đại tá Nguyễn Đình Kiên, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 57, Trung đoàn tên lửa 261, Sư đoàn Phòng không Hà Nội (Sư đoàn 361), nguyên Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng cho biết: công tác chuẩn bị đánh B52 đã được triển khai từ năm 1966 đến 1972, trong đó bộ đội tên lửa là lực lượng nòng cốt.

          “Từ năm 1966 đến 1972, Quân chủng phòng không không quân đã cử một số Trung đoàn vào phía Nam (Quân khu 4) để nghiên cứu cách đánh B52. Đó là cách chuẩn bị cho trận Điện Biên Phủ trên không và biên soạn ra tài liệu “Cách đánh B52” của bộ đội tên lửa. Đến tháng 10/1972 nhằm chuẩn bị đối phó với tập kích trên không của Mỹ, quân chủng tổ chức cuộc tập huấn cho toàn bộ kíp chiến đấu của bộ đội tên lửa ở khu vực phía Bắc. Trong cuộc tập huấn này khi kết luận, Đại tá Lê Văn Tri Tư lệnh quân chủng phòng không không quân có giao nhiệm vụ cho các kíp tên lửa chiến đấu của khu vực Hà Nội, “nếu B52 đánh vào Hà Nội thì các đồng chí phải bắn rơi tại chỗ một chiếc để đưa đuôi của nó vào bãi tha ma máy bay Mỹ tại miền Bắc”, - Đại tá Nguyễn Đình Kiên, kể lại.

          Cẩm nang “Cách đánh B52” tuy chỉ có 30 trang, nhưng nhờ có kinh nghiệm phân biệt B52 như thế nào, quá trình đánh ra sao, thực hành xạ kích v.v., các kíp chiến đấu của Sư đoàn Phòng không Hà Nội, dù chưa bao giờ tiếp xúc với B52, đã nghiên cứu và thành lập các phương án tác chiến, tổ chức huấn luyện cho các đơn vị. Dần dần cách đánh B52 trở thành một kỹ năng của cán bộ chiến sĩ tên lửa Thủ đô.

          Theo phân tích của AHLLVTND Đại tá Nguyễn Đình Kiên, trong chiến đấu mục tiêu bắn rơi tại chỗ là yêu cầu rất lớn của bộ đội tên lừa.

          “Ngày 17/12/1972 nhận được lệnh sẵn sàng chiến đấu cấp cao, cả đơn vị nhanh chóng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và làm công tác chuẩn bị. Căn cứ mệnh lệnh Tư lệnh quân chủng, bộ đội tên lửa Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Không những bắn rơi một chiếc B52, riêng Sư đoàn 361 bắn rơi tới 25 chiếc B52, trong đó có 16 chiếc rơi tại chỗ. Ý nghĩa của việc “pháo đài bay” rơi tại chỗ như chúng ta biết, 1 chiếc có 6 giặc lái, 16 chiếc là có 96 giặc lái, hoặc là chết hoặc là bị bắt. 16 chiếc B52 bị bắn rơi tại chỗ lúc đó quyết định việc Mỹ không chịu được thiệt hại về người lái và máy bay rơi. Vì kế hoạch ban đầu của Hoa Kỳ là, đánh đến Noel nhưng càng đánh càng thua nên buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris theo điều kiện của ta đưa ra trước đó - tháng 10/1972”, - Đại tá Nguyễn Đình Kiên, cho biết.

          Dũng cảm, sáng tạo trong muôn vàn gian khó

          Ngày 14/12/1972, Tổng thống Hoa Kỳ Nixon chính thức ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam với tên gọi Chiến dịch "Linerbacker II". Hoa Kỳ đã huy động số lượng lớn máy bay, tàu chiến và các loại vũ khí cho chiến dịch. Đặc biệt phải kể đến máy bay chiến lược B52 còn được gọi "Siêu pháo đài bay B52", là máy bay chiến đấu hiện đại nhất không lực Hoa Kỳ vào thời điểm đó.

          “B52 có thể mang đến 30 tấn bom, trang bị hệ thống nhiễu gồm 15-16 máy gây nhiễu các loại - radar, đài tên lửa, đài thông tin liên lạc, thậm chí cả đầu đạn nổ sớm, ví dụ như nhiễu tiêu cực, nhiễu tích cực. Một tốp 3 B52 luôn có 12-16 chiếc F4 đi theo hộ tống. Khi đánh Hà Nội, thường có một đội hình từ 30-45 chiếc B52 trong một đợt và gần 100 máy bay hộ tống vòng trong. Vòng ngoài thì Mỹ sử dụng các loại EB-66, EC-130 bay dọc biên giới Việt - Lào và trên Biển Đông để gây nhiễu ngoài đội hình”, - AHLLVTND Đại tá Nguyễn Đình Kiên, kể.

          Tinh vi hơn nữa, không quân Mỹ chọn thời điểm tấn công vào ban đêm để loại trừ pháo và không quân Việt Nam. Toàn bộ đội hình B52 bay vào biên giới tắt đèn hết để không quân Việt Nam không nhìn thấy bằng mắt thường.

“Đấy là những điều rất khó khăn cho không quân Việt Nam. Do đó, lực lượng nòng cốt vẫn là bộ đội tên lửa. Tên lửa ta bị đội hình nhiễu che phủ như vậy nhưng đã được chuẩn bị trước, nhiễu tạp không quân chiến thuật Mỹ cũng trùng với nhiễu tạp B52. Và do được huấn luyện nhuần nhuyễn cũng như đã quen với không quân chiến thuật Mỹ, nên bộ đội tên lửa phòng không Hà Nội không bị động”, - Đại tá Nguyễn Đình Kiên cho biết.

          Cũng theo Đại tá, khi bay vào Hà Nội đội hình B52 buộc phải bay ổn định để cắt bom ở cự ly từ 100km trở vào, trong khi đó Hà Nội lại là mục tiêu cố định. Đây chính là thời cơ để bộ đội tên lửa bám sát, phát hiện và tiêu diệt B52.

Đặc biệt sau khi cắt bom xong, B52 phải bay vòng ra, lúc đó tiết diện phản xạ của B52 lớn lên do nghiêng cánh nên radar của tên lửa có thể phát hiện tín hiệu mục tiêu để đánh bằng phương pháp đón nửa góc. Phương pháp đánh nửa góc hiệu suất rất cao.

          “Chính vì thế khi B52 vào Hà Nội, vừa gặp phải hỏa lực đánh bằng 3 điểm, vừa đánh bằng phương pháp nửa góc cho nên số lượng mục tiêu B52 bị tiêu diệt nhiều là vì lý do như thế. Khó khăn là có nhưng từ những khó khăn đó mình khai thác triệt để được tính năng bộ khí tài Liên Xô hỗ trợ, nâng được hiệu quả chiến đấu lên rất cao”, - vị Anh hùng LLVT kết luận.

          Cái rét như cắt da cắt thịt mùa đông năm ấy, những đêm dài thức trắng không ngủ canh giữ bầu trời, cũng không thể cản được quyết tâm đập tan âm mưu bắn phá miền Bắc, của các chiến sĩ Sư đoàn 361 lúc bấy giờ.

          “Cảm giác rất tự hào khi lần đầu tiên bắn hạ được B52, thực sự sờ được đuôi của nó, thực hiện được nhiệm vụ Tư lệnh quân chủng giao. Vì mình đã làm được điều gì đó bảo vệ Hà Nội, bảo vệ đất nước, giúp cho giải phóng miền Nam, nhanh chóng tiến đến thắng lợi cuối cùng”, - Đại tá Nguyễn Đình Kiên, bồi hồi nhớ lại.

          “Có vũ khí Liên Xô, chúng ta đánh thắng Mỹ”

          Đây là lời khẳng định của AHLLVTND Đại tá Nguyễn Đình Kiên. Ông nói rằng, trong chiến dịch 12 ngày đêm, nhờ có tên lửa đất đối không SA-75M của Liên Xô, bộ đội tên lửa Việt Nam mới có vũ khí để chống lại B52.

“Khi tiếp xúc và làm việc với chuyên gia Liên Xô phải nói rằng, họ là những người đồng chí giúp đỡ một cách rất vô tư. Bản thân họ khi chiến đấu cũng lăn lộn cùng chúng tôi trên mặt trận. Nếu gặp báo động họ cũng sẵn sàng lên xe cùng chúng tôi đánh máy bay Mỹ. Những kinh nghiệm của chuyên gia Liên Xô về công nghệ, khí tài, và, có vũ khí Liên Xô, chúng ta đánh thắng Mỹ”, - Đại tá Nguyễn Đình Kiên khẳng định.

          Chính sự giúp đỡ vô tư của Liên Xô lúc bấy giờ và tính sáng tạo trong cách chiến đấu, khai thác triệt để tính năng bộ khí tài nên bộ đội tên lửa Việt Nam đã lập được chiến công hiển hách, tạo ra bước ngoặt lịch sử.

“Có thể nói lực lượng nòng cốt lúc đó là tên lửa. Số tên lửa bắn rơi B52 cũng nói lên điều đó. Trong 34 chiếc B52 bắn rơi tại miền Bắc lúc đó (Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận) thì bộ đội tên lửa bắn rơi 30 chiếc, trong đó có 16 chiếc rơi tại chỗ. Tỷ lệ đó nói lên vai trò quyết định của tên lửa. Nếu không có bộ đội tên lửa thì ta đối phó với B52 sẽ rất khó khăn”, - AHLLLVTND Đại tá Nguyễn Đình Kiên, nhấn mạnh.

          Đại tá Nguyễn Đình Kiên cho rằng, ngày nay các chiến sĩ trẻ cần phải vận dụng, khai thác triệt để tính năng bộ khí tài hiện đại để sử dụng cho tác chiến, huấn luyện thành thạo phương án tác chiến sao cho hoàn hảo. Hơn nữa, thế hệ chiến sĩ trẻ cần phải được giáo dục và đào tạo để thực sự trung thành với đất nước, chế độ và Tổ quốc.

          Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” góp phần mở ra bước ngoặt với cuộc kháng chiến “đánh cho mỹ cút, đánh cho ngụy đucang”, cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Dù đã qua nửa thế kỷ, thành quả xây dựng đất nước đã thay thế cho dấu tích đạn bom tàn phá, song tầm vóc, bài học lịch sử từ chiến thắng còn nguyên giá trị.

NVH40 - TÂM KHÔNG THIỆN LÀM SAO THẤY ÁNH THÁI DƯƠNG!

 

        Trong nhóm Fb “Nụ Cười Liên – Xô” hồi tháng 11/2022, facebook của V Muoi Do “sưu tầm” các mẩu chuyện theo tác giả là của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan kể có đoạn: Trong chuyến gặp bà năm 2014 “một số chuyên gia kinh tế nước ngoài nói đùa: Việt Nam có lẽ là mô hình kỳ lạ nhất thế giới. Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển, nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển”.    Tám năm sau (2022) gặp bà Phạm Chi Lan khi cùng dự sự kiện tập đoàn Trung Nguyên kỷ niệm 19 năm thương hiệu cafe G7 và 4 năm ra đời Bảo tàng thế giới cafe tại Buôn Mê Thuật, Bà vẫn vậy thân hình gầy gò, ốm yếu, bà kể: Các chuyên gia kinh tế thế giới vừa tới Việt Nam gặp tôi liền hỏi: “Tới giờ, kinh tế Việt Nam thế nào rồi?” tôi bảo: “các ông thấy tôi thay đổi gì không?” mọi người lắc đầu: “Thưa bà, bà vẫn thế!” tôi bèn nói: “cứ nhìn tôi là biết kinh tế Việt Nam”. Các chuyên gia cười. Họ cười mà tôi đau”.

          Trước hết phải nói rằng: Kẻ mang danh “chuyên gia kinh tế” mà dám đánh giá: “Việt Nam là nước… không chịu phát triển” là kẻ đầy dã tâm nên nhìn đâu cũng chỉ thấy màu đen. Cho đến tận bây giờ vẫn chỉ nhìn kinh tế Việt Nam giống như một bà già ốm o, héo hắt, gần đất xa trời, lấy đó làm đắc chí để cười mỉa một cách hợm hĩnh thì đúng là đồ quái thai hay là những sinh vật lâu nay rúc trong lòng đất mới chui lên nên không biết ánh Thái Dương là gì?

          Sự thật là sau hơn 35 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam (GDP) từ 36,66 tỷ USD (năm 1987) đã đạt 400 tỷ USD năm 2022, thu nhập bình quân đầu người 231 USD năm 1985 lên hơn 4.000 USD năm 2022, quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Giáo sư David Reibstein và nhóm nghiên cứu Đại học Pennsylvania – đại học hàng đầu thế giới, là ngôi trường sản sinh ra nhiều tỷ phú nhất Hoa Kỳ, hôm 11/11/2022 đã công bố xếp Việt Nam ở vị trí số 47/195 quốc gia có thương hiệu “những quốc gia tốt nhất thế giới”. Báo Thế giới (Die Welt) nước Đức viết: “Việt Nam ngày nay là một trong những quốc gia năng động nhất trên thế giới, với nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và những người chăm chỉ làm việc. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đã tăng gần gấp 6 lần từ khi bắt đầu cải cách”. Tờ Forbes (Mỹ) đánh giá: “Giai đoạn 2006- 2021, GDP đầu người của Việt Nam tăng 371% (gần gấp 5 lần). Nếu theo giá so sánh năm 2015, trong năm nay GDP của Việt Nam tăng hơn 2 lần”. Năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, cả nước có 116.800 doanh nghiệp thành lập mới, năm 2022 với những biện pháp khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội cùng các chính sách đúng đắn, phù hợp, hữu hiệu, chỉ 10 tháng đã có 125.800 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 34,3% về số doanh nghiệp tăng 5,7% về vốn đăng ký; hơn 25 tỷ USD vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong 11 tháng.

          Từ nước nghèo đói nhất thế giới sau 30 năm chiến tranh, quy mô nền kinh tế xếp thứ 180/195 quốc gia năm 1991 đến năm 2021 Việt Nam đã là nền kinh tế thứ 31 của thế giới, đứng thứ 3 Đông Nan Á và chính thức cạnh tranh vị trí thứ 2 với Thái Lan. 35 năm qua, chúng ta đã đứng dậy như một người khổng lồ, chỉ cần dẫn chứng trong mùa du lịch vừa qua, lượng khách du lịch trong nước đạt gần 60 triệu lượt (2/3 dân số) cho thấy người dân no đủ đã đi du lịch để tận hưởng cuộc sống hạnh phúc; trong 9 tháng đầu năm 2022 có trên 400.000 ô tô mới được đăng ký, dự kiến cán mốc nửa triệu xe hơi cá nhân mua mới năm nay, tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,3 – 8,5% trong năm 2022. Theo đánh giá của IMF, một quốc gia được coi là an toàn khi nợ công dưới 50% GDP. Nợ công của Việt Nam từ 61,4% năm 2017 đã về 43,1% năm 2021.

          Năm 2022 kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, biến động, nhiều nước lạm phát ở mức 2 con số thì Việt Nam trong 10 tháng chỉ 2,89%. Nếu năm 2005 mới xuất khẩu được 32,4 tỷ USD thì kim ngạch xuất 11 tháng năm 2022 đã đạt 673,82 tỷ USD (vượt cả năm 2021 là 660 tỷ USD), trong đó xuất siêu 10,6 tỷ USD. Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres vừa thăm Việt Nam đã nhận xét: “Điều đáng kinh ngạc nhất là khi gia nhập Liên Hợp Quốc, Việt Nam là một nước rất nghèo và ngày nay Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế năng động và là một quốc gia được tôn trọng và có trách nhiệm trong công việc của Liên Hợp Quốc. Việt Nam là hình mẫu của các nước đang phát triển. Các nước vươn lên từ đói nghèo, từ đổ nát chiến tranh và trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình” (không thấy ông ấy nói: “Việt Nam là nước không chịu phát triển” như bọn “mắt cú, tâm xà, đầu bệnh hoạn” vẫn rêu rao?).

            Sự thật là như vậy mà có kẻ “có mắt như mù” hay trong đầu có khối u không còn nhận biết đã trở thành mất trí vô tri mà dám nói kinh tế Việt Nam là “nước không chịu phát triển”?. Thâm chí sau 8 năm (2014 – 2022) vẫn thế? Quả đó là cách nhìn ác cảm, định kiến, thiếu khách quan bất chấp sự thật là sự xuyên tạc trắng trợn của những kẻ chống Cộng muốn gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cố tình phủ nhận những thành tựu, thành quả về kinh tế mà Việt Nam đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện vô cùng khó khăn, cạnh tranh quốc tế khốc liệt, chúng ta phải tổn hao biết bao trí tuệ, công sức, tiền của mới có được mà chúng xem bằng không thì đúng là một lũ bất lương luôn kích động, bôi đen, chống phá Việt Nam.

          Vở tuồng “Lưu Bình – Dương Lễ” có câu: “người ba đấng của ba loài”. Những kẻ khoác áo “chuyên gia” không phải tất cả đều đúng là chuyên gia mà không cẩn thận có kẻ đang muốn “chiên da” chúng ta nếu không cảnh giác.

 

 

 

 

 

 

NVE40 - NHẬN DIỆN ĐÚNG SỰ THẬT VỀ TỰ DO, DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 

Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và vững chắc về tự do, dân chủ và nhân quyền. Điều đó không chỉ thể hiện ở những nổ lực của chúng ta trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà còn được thể hiện ở việc bảo đảm phát huy quyền còn người, quyền công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta; điều này được thể hiện rất rõ tại các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng ta đã đánh giá: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân trong việc quyết định các vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, đảm bảo, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”; điều này chứng tỏ rằng việc đảm bảo tự do, dân chủ và quyền con người luôn được Đảng, Nhà nước ta ưu tiên, quan tâm thực hiện trước hết và trên hết. Bên cạnh đó, trong báo cáo phát triển con người toàn cầu năm 2020, của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam cho rằng: “Với chủ trương phát triển lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Việt Nam đạt mức phát triển con người cao. Đây là thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới”.

Vì vậy, trước các luận điệu xuyên tạc, chống phá, vu cáo, phủ nhận thành quả tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, để tăng cường phản bác một cách hệ thống, có lý lẽ cả về lý luận và thực tiễn, chúng ta cần chủ động xem xét, nhận diện, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện âm mưu, thủ đoạn và xác định rõ bản chất của các luận điệu xuyên tạc, nền tảng, mục tiêu, phương thức, chủ trương, công cụ chống phá của các thế lực thù địch;

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về quyền con người, quyền tự do, dân chủ, nhân quyền. Thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch trên lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyền để đề xuất giải pháp phù hợp; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp trong phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyền trong cả hệ thống chính trị, đổi mới nội dung, phương thức đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyền. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận, nâng cao cảnh giác cách mạng để mỗi cán bộ, đảng viên và trong quần chúng nhân dân.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội, thông tin đối ngoại về thành tựu bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ, nhân quyền. Phát huy hiệu quả vai trò của báo chí, truyền thông trong bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người, thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyềnKiên quyết, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, các hoạt động chống phá, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tóm lại, ở nước ta “quyền con người” là quyền thiêng liêng và cao quý nhất; bởi vậy, mỗi người dân Việt Nam dù ở bất cứ đâu cũng cần hiểu rõ thực tế Việt Nam là một quốc gia tự do, dân chủ, bình đẳng, nơi con người được tôn trọng, bảo vệ và phát triển một cách tốt nhất. Đừng bao giờ tin vào những lời dối trá của các tổ chức, cá nhân sử dụng nhân quyền, vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền để làm “công cụ” chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn thù địch trên lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới.

 

 

       

        

 

NVE40 - KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VỀ NỀN GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Đảng ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và tập trung đổi mới căn bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta thường xuyên quan tâm lãnh, chỉ đạo, đổi mới, phát huy trí tuệ của các cấp, ngành và toàn dân để xây dựng nền giáo dục Việt Nam đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. 

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tâm huyết, vẫn còn những kẻ luôn xuyên tạc, bịa đặt, phủ nhận, đặc biệt lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm trong lĩnh vực giáo dục để vu khống, quy chụp, đổ lỗi do chế độ xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Những luận điệu đó hoàn toàn vô căn cứ, phủ nhận vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng mácxít trong nền tảng tinh thần của xã hội, xuyên tạc thực tiễn phát triển nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

Nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ Xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta, giữ vai trò trung tâm, chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Qua 35 năm đổi mới, nền giáo dục Việt Nam có đóng góp rất quan trọng để đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế. Chúng ta cũng đang hết sức, tận tâm, tận lực để khắc phục những hạn chế. Đổi mới, xây dựng nền giáo dục Việt Nam phải vì mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cha ông ta luôn coi trọng giáo dục lịch sử dân tộc cho thế hệ sau. Dù kẻ thù có tìm mọi cách đồng hóa, phá hoại, xuyên tạc, song người Việt Nam luôn sáng suốt, phân biệt rạch ròi công, tội, đánh giá khách quan về lịch sử. Đó là sự răn dạy con cháu “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những người có công với non sông đất nước, vạch mặt những kẻ “Việt gian”, “bán nước”, “cõng rắn cắn gà nhà”.

Hiện nay, giáo dục Việt Nam hướng tới mục tiêu “nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”, trong quá trình đổi mới, sự nghiệp xây dựng nền giáo dục Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng:

Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8 triệu học sinh tiểu học, hơn 5,9 triệu học sinh THCS, hơn 2,7 triệu học sinh THPT; tổng số phòng học là 593.808 phòng (tăng 3.504 phòng so với năm học trước), trong đó phòng học kiên cố chiếm 70,5%. Riêng bậc THPT, cả nước có có 2.543 trường (tăng 144 trường), 59.686 lớp; trong số này có 45,33% số trường đạt chuẩn quốc gia và 40,22% số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục; có 135.875 giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 99,78% (tăng 2,8% so với năm học trước).

Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Việt Nam hiện được xếp vào tốp 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới, theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á - Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới. Hay trong các Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều đạt kết quả ấn tượng, vượt qua mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các đội tuyển Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao. Chẳng hạn năm 2019, với 15 huy chương vàng, 14 huy chương bạc, 7 huy chương đồng, Đoàn Học sinh Việt Nam nằm ở tốp đầu tại kỳ thi Olympic Toán học và khoa học quốc tế; với thành tích này, Việt Nam tiến 13 bậc so với kỳ thi lần thứ 59 năm 2018.

 Ở bậc đại học, tính đến cuối năm 2020, 7 trường đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá, kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA). 195 chương trình đào tạo của 32 trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Năm 2018, lần đầu tiên trong lịch sử, hai đại học của Việt Nam, là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TPHCM, lọt vào danh sách 1.000 trường hàng đầu thế giới của Tổ chức Quacquarelli Symonds (Anh). Mặt khác, tự chủ đại học đã tạo nên đột phá khi nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo đứng trong tốp 500 thế giới. Việt Nam cũng đứng thứ 49 thế giới về số lượng báo khoa học công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín. Cả nước hiện có 172 trường đại học công lập, 65 trường ngoài công lập, với gần 1,7 triệu sinh viên.

Giáo dục đào tạo ở Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là nền giáo dục có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong 76 năm qua, Đại hội XIII của Đảng đã định hướng phát triển giáo dục Việt Nam cho thời kỳ tới, trong đó có một số điểm nổi bật như: thay vì chỉ nhấn mạnh vào “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo” như trước đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đề cập trực tiếp việc “phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Phương hướng “giáo dục là quốc sách hàng đầu” được xác định theo hướng mới: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”. Không chỉ vậy, giáo dục Việt Nam còn hướng đến sự phát triển đột phá và nâng cao chất: “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới”.

Chúng ta tin tưởng và tự hào với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với sự đồng lòng của toàn dân tộc trong công tác giáo dục đào tạo sẽ phát triển cao hơn nữa, khẳng định được ý chí sức mạnh con người Việt Nam trên con đường chinh phục tri thức nhân loại, bừng bước góp phần quan trọng trong xây dựng nền kinh tế nước nhà; vì vậy trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bản thân mỗi công dân cần nhận thức đúng đắn, có thái độ rõ ràng từ đó ra sức đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc về công tác giáo dục đào tạo của các thế lực thù địch./.

 

NVG40 - BÍ ẨN TẦM CỠ THẾ KỶ CHƯA CÓ LỜI GIẢI ĐÁP?

 

Tại sao nước ta lại dùng TƯ NHÂN để biên soạn lịch sử và cải cách giáo dục?

Trần Đuc Cuòng và Nguyẽn Minh Thuyết là 2 trong số những kẻ TƯ NHÂN này.

Ai dám chắc những kẻ không thuộc nhà nước quản lý sẽ làm việc tận tâm vì lợi ích quốc gia ?

Trần Đuc Cuòng là kẻ đã nghỉ hưu, về nguyên tắc hắn đã là TƯ NHÂN từ năm 2013. Tại sao hắn lại được phân công viết bộ sách Lịch sử Việt nam 15 tập với đầy rẫy thủ đoạn đánh tráo ngụy quân ngụy quyền ?

Nguyẽn minh Thuyết là kẻ ngoài biên chế đã lâu nhưng lại được nắm giữ đại sự quốc gia là chương trình cải cách GD ?

Hội KHLS Việt nam là một hội nhóm nghề nghiệp, tức là một dạng Hợp Tác Xã. Tại sao Chủ tịch nước lại mời Hợp Tác xã này để xây dựng phương pháp học tập lịch sử ?

Lẽ nào cứ mời tư nhân làm việc đại sự, để nếu có sai phạm thì chẳng ai chịu trách nhiệm ?

Đây có thể là sự mờ ám lớn nhất thế kỷ 21, chưa có lời giải !

Chẳng lẽ một đất nước có lực lượng trí thức khổng lồ như Việt Nam lại không có nhân tài để nhất định phải bấu víu vào những vị đang kề bên miệng lỗ tham gia vào công tác giáo dục và biên soạn lịch sử ?

Điều đáng nói là có vị đòi "không nên kỷ niệm ngày chiến thắng và nên vì lợi ích quốc gia mà bỏ qua ý thức hệ" ?

Thử hỏi, nếu không có ý thức hệ thì có độc lập hôm nay không ? Nếu bỏ qua ý thức hệ thì có bổng lộc cho các vị hưởng như hôm nay không ? Sao các vị dám buông lời phản trắc đê t:iện đến vậy ?

Đặc biệt có vị còn bao biện cho bọn ngụy quyền bán nước bằng những câu từ dối trá đến trơ trẽn : "ta nên gọi tên chế độ đã tồn tại ở nửa nước bằng đúng tên gọi của nó trong lịch sử" ???

Chẳng lẽ trong lịch sử có một kẻ tự xưng là Giáo sư thì ta cũng gọi hắn là Giáo sư để "khách quan với lịch sử" hay sao ?

Một kẻ dối trá là một kẻ bất lương, một kẻ bất trung với hiến pháp, chống lại sự lãnh đạo của Đảng là một kẻ vô đạo đức. Vậy chúng ta dùng một kẻ dối trá để dạy cách làm người hay dạy học sinh thành những tên trộm cươp ?

Chưa hết, tại sao chúng ta lại nhất định phải vay 80 triệu đô la từ bên ngoài Việt Nam để cải cách Giáo dục, để rồi phải có sự đồng ý của người nước ngoài mới có được đội ngũ biên soạn ?

Rõ ràng người nước ngoài can thiệp vào nội bộ của Việt Nam, xâm phạm nguyên tắc độc lập của Việt Nam.

Máu của đồng bào chiến sỹ đã phải chảy thành sông, và hàng triệu người đã phải tan xương nát thịt mới giữ được độc lập. Lẽ nào chỉ vì 80 triệu đô la còm cõi mà để người nước ngoài xâm phạm vào độc lập thiêng liêng của Tổ quốc được hay sao ?

Ai dám khẳng định là đội ngũ của Nguyẽn Minh Thuyết không bị người nước ngoài giật dây theo âm mưu của họ ?

Thật bi hài, 80 triệu đô la chỉ bằng tiền bán vải tươi trong vòng 10 ngày của huyện Lục Ngạn. Nếu ta vay tiền 10 ngày bán vải đó cũng dư tiền để đổi mới giáo dục.

Tại sao lại phải phụ thuộc vào người nước ngoài trong một chính sách sống còn của quốc gia ?

Hàng vạn tỷ đồng mua vaccine cũng do nhân dân đóng góp trong nháy mắt, cớ gì phải vay mượn và lệ thuộc vào nước ngoài ?

Trong khi đó, GDPT hệ 10 năm lại có quá nhiều ưu việt và không mất tiền thì lại bị vứt bỏ ?

Làm sao ta có thể không nghi ngờ động cơ phá hoại của ngành Giáo dục ?

Chương trình GDPT 2018 giống như một thứ ung nhọt gây bức xúc cực điểm trong dư luận nhiều năm vừa qua nhưng không rõ vô tình hay cố ý vẫn được các cơ quan chức năng nhào nặn, vá víu hết sức khó hiểu.

Không thể coi một sản phẩm dành cho giáo dục là một thứ hàng hóa thông thường. Chúng ta chấp nhận một chương trình méo mó bởi những lần gọt sửa be bét, giống như chiếc lốp xe có đầy mảnh vá thì chính là một sự xúc phạm đối với văn hiến nước nhà.

Tai hại hơn, nếu nền tảng tri thức của dân tộc như một chiếc xe kém chất lượng ngay từ khi thiết kế lại mang đầy thương tích do sửa chữa tan tành thì sẽ đưa vận mệnh của dân tộc đến bờ vực thẳm.

Đau xót hơn, cả nước đã phải trả tiền tươi để mua về một chương trình rách rưới, chất lượng thấp và đầy rẫy nỗi lo bất trắc cho con em mình.

Do vậy, sự cấp thiết lúc này là phải hủy bỏ chương trình GDPT 2018 gây bức xúc dư luận, chứ không thể làm cho nhanh, sửa chữa chắp vá mà vứt bỏ an ninh quốc gia, chà đ,ạp lên sự tồn vong dân tộc sau này.

Phải thu hồi ngay những ấn phẩm đánh tráo ngụy quyền thành "chính quyền" hòng đổi trắng thay đen, biến bè lũ bán nươc thành "vnch" vô tội.

Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục thì phải cải tổ triệt để thượng tầng cao nhất của Văn hóa & Giáo dục. Chỉ khi nào không còn những kẻ dối trá như Nguyẽn Minh Thuyết dính líu tới công tác giáo dục thì mới có 1 chương trình sạch và chất lượng cao. Chỉ khi nào những nội dung đánh tráo ngụy quyền thành "chính quyền Sài gòn" và "việt nam cộng hòa"... bị gỡ bỏ khỏi sách báo thì lịch sử mới được bảo vệ đúng và chân thực, an ninh quốc gia mới được vững bền.

Chỉ khi nào không có yếu tố nước ngoài can thiệp vào đội ngũ biên soạn thì mới có được một chương trình Giáo dục vì nước, vì dân.

Không thể rút mãi sợi dây kinh nghiệm vì cả dân tộc đã mệt mỏi vì sợi dây vô định này lắm rồi.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...