Theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nội dung này được đông đảo người dân đồng
tình, ủng hộ. Bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, phản động, cực đoan
thường xuyên tuyên truyền những luận điệu sai trái, xuyên tạc chính sách đất
đai của Việt Nam, âm mưu làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Điều 53 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước
đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý”. Xét từ góc độ lý luận và thực tiễn cho thấy chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay thể hiện tính đúng đắn, phù
hợp điều kiện cụ thể của nước ta cũng như định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta lựa chọn.
Trong thời kỳ quá độ,
Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa
thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu để phù hợp trình độ không đồng đều của
lực lượng sản xuất nhằm giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, ngay từ đầu, mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam là bảo đảm kết
quả tăng trưởng kinh tế phục vụ cho lợi ích của tất cả mọi giai tầng trong xã
hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong nền kinh tế Việt Nam, chế độ
công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu giữ vai trò chủ đạo bởi như vậy mới giúp tạo
ra sự bình đẳng về kinh tế, tạo cơ sở để người dân thực hiện quyền bình đẳng và
quyền làm chủ của mình trên các lĩnh vực khác của đời sống. Do đó, đất đai với
tư cách là một trong những loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng có tính
chất quyết định trong phát triển kinh tế cũng thuộc quyền sở hữu toàn dân.
Từ đây có thể thấy, quan
điểm cho rằng Việt Nam phát triển kinh tế đa thành phần, nhiều hình thức sở hữu
thì phải thừa nhận chế độ đa sở hữu về đất đai (tức là thừa nhận sở hữu tư nhân
về đất đai) như nhiều nước trên thế giới mới phù hợp và bảo đảm dân chủ, công
bằng là hết sức võ đoán và phi lý. Ở nhiều nước tư bản hiện nay thực hiện chế
độ đa sở hữu về đất đai gồm: sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu của các cơ
quan nhà nước, tuy nhiên đa phần diện tích đất ở và đất sản xuất, kinh doanh
đều thuộc sở hữu tư nhân, mà chủ yếu là các nhà tư bản.
Đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng phân
hóa giàu nghèo, phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc tại các quốc gia này. Tất
nhiên, theo quy định pháp luật khi cần Nhà nước cũng có thể thu hồi đất của tư
nhân để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội hay thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an
ninh. Nhưng Nhà nước tư sản do giai cấp tư sản lập nên và sử dụng để bảo vệ tối
đa cho quyền và lợi ích của mình, do đó, nếu có thu hồi, trưng dụng đất tư vì
bất cứ mục đích gì thì cũng không nằm ngoài phạm vi bảo vệ và phục vụ tốt hơn
cho lợi ích cho giai cấp tư sản.
Cho nên, sở hữu tư nhân,
đa sở hữu về đất đai không thể trở thành cơ sở để bảo đảm mục tiêu phát triển
kinh tế vì con người, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội như chế độ công hữu về đất đai, tất cả mọi người dân đều là chủ sở
hữu của đất đai như ở Việt Nam hiện nay. Điều này đồng nghĩa với việc đòi hỏi
từ bỏ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai để thừa nhận sở hữu tư nhân hay chế độ
đa sở hữu về đất đai là nhằm mưu đồ đòi hỏi từ bỏ những mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, làm chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, theo đúng ý đồ của các thế lực thù địch.
Theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Theo đó, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở
hữu có thể thực hiện vai trò kiểm soát, quản lý và điều tiết các quan hệ đất
đai trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng của người dân trong việc thực hiện các
quyền với tư cách là chủ sở hữu thật sự đối với tài nguyên đất nhằm hưởng lợi
tối đa từ nguồn tài nguyên này một cách công bằng; khắc phục và hạn chế ở mức
thấp nhất những vấn đề liên quan đến sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng về
thu nhập từ đất đai. Hơn nữa, việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà
nước Việt Nam có thể sử dụng nguồn tài nguyên này phục vụ các mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội.
Như vậy, Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai là nhằm mục đích để tài nguyên
đất được sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả nhất phục vụ cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của nhân dân. Do đó, việc các
thế lực thù địch đưa ra luận điệu cho rằng “sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt
Nam là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên hình thức còn thực tế đã tước
quyền sở hữu của nhân dân bởi thực chất, đất đai thuộc quyền sở hữu, quản lý
của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức và những người trong bộ máy Nhà nước” là
đánh tráo khái niệm nhằm mục đích dẫn đến cách hiểu sai lầm về bản chất của chế
độ sở hữu đất đai ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, với chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý, luật pháp Việt Nam nhất là Luật Đất đai năm 2013 đã cung cấp những căn cứ
để phân định rõ ràng quyền hạn cũng như trách nhiệm của người sử dụng đất
(người được giao đất và người thuê đất) và người đại diện chủ sở hữu toàn dân,
thống nhất quản lý đất (cơ quan nhà nước các cấp). Cụ thể: Điều 5 của Luật Đất
đai năm 2013 quy định: Người sử dụng đất gồm: tổ chức trong nước; hộ gia đình,
cá nhân trong nước; cộng đồng dân cư; cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có
chức năng ngoại giao; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Điều 7, 8 của Luật Đất đai cũng quy định rõ cá nhân nào có
đủ tư cách là đại diện pháp lý trong các giao dịch đất đai của các chủ thể sử
dụng đất theo Điều 5; đồng thời luật cũng phân định rõ ràng các quyền hạn và
trách nhiệm của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai
(từ Điều 13 đến Điều 21).
Như vậy, không có chuyện
như các thế lực thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc đó là sở hữu đất đai toàn dân
thì “mù mờ về pháp lý”, không tìm thấy các chủ thể trong các quan hệ pháp lý về
đất đai, đặc biệt khi có những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn… về đất đai xảy
ra thì không có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng đắn, công bằng. Và càng không
thể có chuyện phải chuyển từ sở hữu toàn dân sang đa sở hữu về đất đai, thừa
nhận sở hữu tư nhân thì mới giải quyết được tình trạng này.
Ở các nước trên thế giới
khi thực hiện chế độ đa sở hữu về đất đai, thừa nhận sở hữu tư nhân thì những
tiêu cực, mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột vẫn xảy ra khá phổ biến vì nhiều lý
do mà một trong số đó là bởi Nhà nước vẫn có quyền thu hồi, trưng dụng đất tư
trong những trường hợp cần thiết. Điều đó cũng rất dễ nảy sinh tình trạng lạm quyền,
tiêu cực dẫn đến các tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột đất đai gây bức xúc trong
dư luận xã hội. Thực tế, ở nhiều nước chính quyền đã mang xe ủi đi cưỡng chế
giải tỏa đất đai cho mục tiêu phát triển kinh tế của mình.
Điều này đồng nghĩa với
việc sở hữu toàn dân không phải là căn nguyên của tình trạng tiêu cực, mâu
thuẫn, tranh chấp, xung đột hay những điểm nóng về đất đai ở nước ta hiện nay.
Muốn giải quyết những tiêu cực, bức xúc, tranh chấp, điểm nóng về đất đai thì
phải bắt đầu từ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, quy định về
quản lý, sử dụng đất; có những biện pháp tổ chức thực hiện hiệu quả chứ không
phải là nằm ở việc thay đổi chế độ sở hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét