Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch,
phản động thường xuyên đăng tải trên trang blog: Đối thoại, Việt Tân, VOA Tiếng
Việt, BBC Tiếng Việt, Việt Nam Thời Báo…với các bài viết có nội dung xuyên tạc
chống phá Đảng và nhà nước ta. Chúng triệt để khai thác và khoét sâu những sơ hở,
yếu kém trong thực hiện cơ chế, chính sách của luật pháp, của bộ máy chính trị
các cấp, nhất là việc hoạt động chưa thật sự hiệu quả của một số thiết chế
trong bộ máy nhà nước và tổ chức chính trị -xã hội; chậm cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp,
ngành; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” của một bộ phận cán bộ, đảng viên... để phủ nhận nguyên
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước và
tung hô, cường điệu hóa, lý tưởng hóa học thuyết “tam quyền phân lập”. Đây là
những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù địch, phản động ra sức
tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở
nước ta và lái nhà nước Việt Nam đi theo mô hình tổ chức nhà nước “Tam quyền phân lập”.
Có thể khẳng định ngay rằng, đó là luận điệu
sai trái, cực đoan và cơ hội chính trị. Học thuyết “tam quyền phân lập” được áp
dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước ở các nước tư bản: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và một số nước phương Tây… mặc dù có mang lại một số mặt tích cực, cần
được nghiên cứu, tham khảo, nhưng không nên vì thế mà cường điệu hóa, lý tưởng
hóa và xem nó như là chìa khóa vạn năng của “dân chủ - pháp quyền”, của kiểm
soát quyền lực nhà nước và ngăn ngừa tham nhũng với những lý do sau đây:
Thứ nhất,về phương diện lý luận, “tam quyền phân lập” là một học
thuyết phức tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tư tưởng “tam quyền
phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại, nhưng với tư
cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây,
gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên
quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến với toàn bộ quyền lực nhà
nước tập trung vào tay một người là Vua, theo quan niệm Vua là con trời, thể
theo lòng trời mà làm vua, ý vua là pháp luật cao nhất.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nêu ra mặt tiến bộ của học thuyết về “tam quyền
phân lập” đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia quyền lực, thực chất, không phải là
cái gì khác ngoài sự phân công lao động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn
giản hóa và dễ kiểm soát. Ph.Ăngghen viết: “Sự phân quyền... trên thực tế chỉ
là một sự phân công lao động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ
máy nhà nước nhằm mục đích đơn giản hóa và kiểm soát”
Dựa trên quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự cần thiết của việc phân
công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong hiến pháp, nhiều nhà triết học,
nhà tư tưởng đã có chung quan điểm: Sự phân chia quyền lực là hệ thống các chế
định pháp luật - nhà nước hướng tới bảo đảm các phương tiện pháp lý có sự độc
lập tương đối của các cơ quan nhà nước với nhau.
Thứ hai,về phương diện thực tiễn, do những hạn chế của học thuyết
“tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp
dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân tộc, cũng như tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học thuyết này trong nhà nước
theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể cộng hòa đại nghị hoặc
chính thể cộng hòa hỗn hợp...; trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang khác
với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.
Dựa trên học thuyết “tam quyền phân lập”, hơn hai thế kỷ nay, các nhà
nước tư sản phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc
vận dụng học thuyết đó là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ, không có nước nào
giống nước nào. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và
tư pháp, nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở
các nước khác nhau quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo
chính thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo
theo chính thể Cộng hòa đại nghị (như Liên bang Đức) hay chính thể quân chủ Lập
hiến (như Vương quốc Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính
thể Cộng hòa lưỡng tính (như Cộng hòa Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước
gồm ba quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự
độc lập, đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu
số trong Nghị viện. Việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức
quyền lực nhà nước ở các nước tư sản là rất khác nhau. Vì thế, không thể nói
phân quyền theo nước này thì tốt nước kia thì không tốt, theo mô hình này thì
dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ. Vì thế, tuyệt nhiên không có sự
sao chép, rập khuôn máy móc mô hình phân quyền của nước này cho nước kia; đòi hỏi
tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải giống nước kia mới có dân chủ và
nhân quyền như một số người mong muốn.
Thứ ba,về bản chất và nguồn gốc của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước là
thống nhất; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể
tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Khi quyền lực nhà nước là thống
nhất và thuộc về nhân dân, thì về nguyên tắc, quyền lực nhà nước không thể phân
chia (chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác); các cơ quan nhà nước khi thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân
giao phó, ủy quyền.
Quyền lực nhà nước vốn dĩ là một chỉnh thể, bao gồm các bộ phận cấu
thành quan hệ hữu cơ với nhau và với toàn bộ quyền lực nhà nước, không thể phân
tách độc lập và yêu cầu các quyền chế ước, kiểm soát “tuyệt đối” lẫn nhau được.
Trên thực tiễn, quyền lực nhà nước tư sản dù có cố tổ chức theo tam quyền phân
lập, nhưng thực chất vẫn là thống nhất, không tách rời. Vì thế, những cố gắng
phân quyền trong các hiến pháp tư sản đã bị phá sản trong thực tiễn; tư tưởng
của những người “sáng lập” ra nó cũng trở nên vô ích.
Ở Việt Nam, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền
lực, không phân lập, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thể chế
hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Điều 2 Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự khẳng định quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một bước
phát triển mạnh mẽ trong việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
của Đảng ta. Với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước của Nhân dân được xác định bởi bốn nội dung quan trọng: thống nhất quyền
lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực.
Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn như đã phân tích ở trên,
chúng ta khẳng định rằng: “tam quyền phân lập” có thể phù hợp ở các mức độ khác
nhau với một số nước trên thế giới, nhưng không phù hợp với thể chế chính trị
của Việt Nam, bởi lẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước theo phương thức nào là
phụ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Ở nước ta, Nhân dân là chủ
nhân của quyền lực chính trị, quyền lực nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà
nước, quyền lực đó chỉ có thể thực hiện một cách thống nhất dưới sự giám sát
của Nhân dân, chứ không thể phân chia. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân được bảo đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực tiễn và kinh nghiệm hơn 35 năm đổi cũng như
việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc
tế đã cho thấy, tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối
đổi mới, lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam không “tam quyền phân lập” mà thống nhất quyền lực của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối
hơp và kiểm soát giữ các cơ quan nhà nước trong viêc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại.
cần xử lý nghiêm quân phản dộng
Trả lờiXóa