Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2023

NVD40 - Phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi tam quyền phân lập hiện nay

             Hiện nay, nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới nhưng mức độ áp dụng không hoàn toàn giống nhau. Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống thường áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập. Trong khi đó các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị hoặc quân chủ đại nghị thường áp dụng nguyên tắc phân quyền mềm dẻo hơn. Theo đó, có sự dung hợp quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Mô hình tam quyền phân lập ra đời, ban đầu nhìn chung, với chủ trương phân quyền để chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Tuy nhiên, mô hình này mang tính lịch sử, xã hội và sự vận dụng còn phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử; quan hệ cũng như tương quan lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai cấp trong xã hội. Cho nên, chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay, bởi các lý do sau:

Thứ nhất, về phương diện lý luận, “tam quyền phân lập” là một học thuyết phức tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Tư tưởng “tam quyền phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại, nhưng với tư cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến với toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người là Vua, theo quan niệm Vua là con trời, thể theo lòng trời mà làm vua, ý vua là pháp luật cao nhất. Có thể xem, đây là một học thuyết có giá trị về chính trị - kỹ thuật pháp lý rất to lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi, hạt nhân hợp lý nhất của học thuyết này, là khi quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho các cơ quan khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát, đối trọng lẫn nhau. Với quan niệm đó, học thuyết phân quyền là sự phủ định biện chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền.

C.Mác và Ph.Ăngghen khi nêu ra mặt tiến bộ của học thuyết về “tam quyền phân lập” đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia quyền lực, thực chất, không phải là cái gì khác ngoài sự phân công lao động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn giản hóa và dễ kiểm soát. Ph.Ăngghen viết: “Sự phân quyền... trên thực tế chỉ là một sự phân công lao động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục đích đơn giản hóa và kiểm soát”.

Dựa trên quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự cần thiết của việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong hiến pháp, nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đã có chung quan điểm: Sự phân chia quyền lực là hệ thống các chế định pháp luật  - nhà nước hướng tới bảo đảm các phương tiện pháp lý có sự độc lập tương đối của các cơ quan nhà nước với nhau.

Thứ hai, về phương diện thực tiễn, do những hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân tộc, cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học thuyết này trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể cộng hòa hỗn hợp...; trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang khác với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.

Dựa trên học thuyết “tam quyền phân lập”, hơn hai thế kỷ nay, các nhà nước tư sản phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng học thuyết đó là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ, không có nước nào giống nước nào. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở các nước khác nhau quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo chính thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo theo chính thể Cộng hòa đại nghị (như Liên bang Đức) hay chính thể quân chủ Lập hiến (như Vương quốc Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính thể Cộng hòa lưỡng tính (như Cộng hòa Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước gồm ba quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự độc lập, đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu số trong Nghị viện. Có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp lại độc lập, kiềm chế và đối trọng một cách cứng rắn (như nước Mỹ); có nước kiềm chế đối trọng một cách mềm dẻo giữa các quyền (như ở Đức). Việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước tư sản là rất khác nhau. Bởi tổ chức quyền lực nhà nước về phương diện chính trị và kỹ thuật pháp lý, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố từ tương quan lực lượng giữa các giai cấp, nhất là trong nội bộ của giai cấp cầm quyền, từ đặc thù của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và trên trường quốc tế, tư tưởng lập hiến của những người đương thời,… Tất cả các yếu tố đó đều là những nhân tố chi phối và ảnh hưởng đến việc vận dụng học thuyết phân quyền, trong tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi nước. Vì thế, không thể nói phân quyền theo nước này thì tốt nước kia thì không tốt, theo mô hình này thì dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ. Vì thế, tuyệt nhiên không có sự sao chép, rập khuôn máy móc mô hình phân quyền của nước này cho nước kia; đòi hỏi tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải giống nước kia mới có dân chủ và nhân quyền như một số người mong muốn.

Thứ ba, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền.

Như vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ quan này đều thực hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mô hình tam quyền phân lập bởi sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được bảo đảm và thực hiện tốt.


        Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn như đã phân tích ở trên, chúng ta khẳng định rằng: “tam quyền phân lập” có thể phù hợp ở các mức độ khác nhau với một số nước trên thế giới, nhưng không phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam, bởi lẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước theo phương thức nào là phụ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Ở nước ta, Nhân dân là chủ nhân của quyền lực chính trị, quyền lực nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, quyền lực đó chỉ có thể thực hiện một cách thống nhất dưới sự giám sát của Nhân dân, chứ không thể phân chia. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được bảo đảm thực hiện bởi sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.Thực tiễn và kinh nghiệm qua 36 năm đổi cũng như việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế đã cho thấy, tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới, lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không “tam quyền phân lập” mà thống nhất quyền lực của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hơp và kiểm soát giữ các cơ quan nhà nước trong viêc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đ

1 nhận xét:

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...