Hiện nay, nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới nhưng mức độ áp dụng không hoàn toàn giống nhau. Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống thường áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập. Trong khi đó các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị hoặc quân chủ đại nghị thường áp dụng nguyên tắc phân quyền mềm dẻo hơn. Theo đó, có sự dung hợp quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Mô hình tam quyền phân lập ra đời, ban đầu nhìn chung, với chủ trương phân quyền để chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Tuy nhiên, mô hình này mang tính lịch sử, xã hội và sự vận dụng còn phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử; quan hệ cũng như tương quan lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai cấp trong xã hội. Cho nên, chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, về phương diện lý luận,
“tam quyền phân lập” là một học thuyết phức tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Tư tưởng “tam quyền phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ
thời La Mã cổ đại, nhưng với tư cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm
của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản
chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong
kiến với toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người là Vua, theo
quan niệm Vua là con trời, thể theo lòng trời mà làm vua, ý vua là pháp luật
cao nhất. Có thể xem, đây là một học thuyết có giá trị về chính trị - kỹ thuật
pháp lý rất to lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi, hạt nhân hợp lý nhất
của học thuyết này, là khi quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung
vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho các cơ quan khác nhau, có nhiệm
vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát,
đối trọng lẫn nhau. Với quan niệm đó, học thuyết phân quyền là sự phủ định biện
chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi
nêu ra mặt tiến bộ của học thuyết về “tam quyền phân lập” đã nhấn mạnh rằng, sự
phân chia quyền lực, thực chất, không phải là cái gì khác ngoài sự phân công
lao động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn giản hóa và dễ kiểm soát.
Ph.Ăngghen viết: “Sự phân quyền... trên thực tế chỉ là một sự phân công lao
động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục
đích đơn giản hóa và kiểm soát”.
Dựa trên quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về sự cần thiết của việc phân công quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước trong hiến pháp, nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đã có chung
quan điểm: Sự phân chia quyền lực là hệ thống các chế định pháp luật - nhà
nước hướng tới bảo đảm các phương tiện pháp lý có sự độc lập tương đối của các
cơ quan nhà nước với nhau.
Thứ hai, về phương diện thực tiễn,
do những hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và
đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu
nhà nước, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân
tộc, cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học
thuyết này trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể
cộng hòa đại nghị hoặc chính thể cộng hòa hỗn hợp...; trong hình thức cấu trúc
nhà nước liên bang khác với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.
Dựa
trên học thuyết “tam quyền phân lập”, hơn hai thế kỷ nay, các nhà nước tư sản
phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng học
thuyết đó là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ, không có nước nào giống nước
nào. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và tư pháp,
nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở các nước
khác nhau quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo chính
thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo theo
chính thể Cộng hòa đại nghị (như Liên bang Đức) hay chính thể quân chủ Lập hiến
(như Vương quốc Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính thể
Cộng hòa lưỡng tính (như Cộng hòa Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước gồm ba
quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự độc
lập, đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu số
trong Nghị viện. Có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp lại độc lập,
kiềm chế và đối trọng một cách cứng rắn (như nước Mỹ); có nước kiềm chế đối
trọng một cách mềm dẻo giữa các quyền (như ở Đức). Việc vận dụng học thuyết tam
quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước tư sản là rất khác
nhau. Bởi tổ chức quyền lực nhà nước về phương diện chính trị và kỹ thuật pháp
lý, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố từ tương quan lực lượng giữa các giai cấp,
nhất là trong nội bộ của giai cấp cầm quyền, từ đặc thù của cuộc đấu tranh giai
cấp ở trong nước và trên trường quốc tế, tư tưởng lập hiến của những người
đương thời,… Tất cả các yếu tố đó đều là những nhân tố chi phối và ảnh hưởng
đến việc vận dụng học thuyết phân quyền, trong tổ chức quyền lực nhà nước của
mỗi nước. Vì thế, không thể nói phân quyền theo nước này thì tốt nước kia thì
không tốt, theo mô hình này thì dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ.
Vì thế, tuyệt nhiên không có sự sao chép, rập khuôn máy móc mô hình phân quyền
của nước này cho nước kia; đòi hỏi tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải
giống nước kia mới có dân chủ và nhân quyền như một số người mong muốn.
Thứ ba, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thống nhất, mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:
“1. Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Khi
quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về nguyên tắc
không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan nhà
nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các
quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến
pháp 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015)
cũng do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm,
nghĩa vụ phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền.
Như
vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam đều có mục
đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ quan này đều thực hiện
quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân
không thể phân chia. Nhà nước Việt Nam không cần tới mô hình tam quyền phân lập
bởi sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được
bảo đảm và thực hiện tốt.
không tin đài địch
Trả lờiXóa