Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

Khát vọng hoà bình và tinh thần quyết hy sinh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam qua lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, toàn thể quốc dân đồng bào đã nhất tề đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi đất nước trước lời hiệu triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kế thừa hào khí chống giặc, giữ nước trong lịch sử dân tộc, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh  nêu bật lên tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, song, chính quyền cách mạng non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, tình thế cách mạng lúc này mong manh như “nghìn cân treo sợi tóc” phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng lúc: Giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm.
Xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta là: đất nước được hoà bình, ổn định để tập trung tài lực vào xây dựng cuộc sống mới; từ đánh giá âm mưu của các thế lực đế quốc và căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng lúc đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định chủ trương lãnh đạo cách mạng là phải có chiến lược và sách lược đúng đắn, vừa kiên quyết đấu tranh để giữ vững nền độc lập, thống nhất quốc gia, vừa nhân nhượng, hòa hoãn với kẻ thù để tránh cùng một lúc phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở hai miền đất nước (với quân Trung Hoa Dân quốc và quân Pháp), hoặc một cuộc chiến tranh quy mô cả nước với thực dân Pháp; đồng thời, tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Cuối năm 1945, đầu năm 1946, chúng ta thực hiện sách lược “Hoa - Việt thân thiện”, hoà hoãn với Trung Hoa Dân quốc và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách để tránh một cuộc xung đột quân sự lớn ở miền Bắc, tập trung đấu tranh chống thực dân Pháp đang gây chiến tranh ở miền Nam. Đầu năm 1946, bọn đế quốc thoả thuận để cho Pháp độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình mới, ta lại thực hiện sách lược “hoà để tiến”, hoà hoãn với thực dân Pháp bằng Hiệp định Sơ bộ, cuộc đàm phán tại Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị chính thức ở Phông-ten-nơ-bờ-lô, Tạm ước 14-9-1946 để đuổi quân Trung Hoa Dân quốc về nước và cố gắng giải quyết cuộc xung đột Pháp - Việt bằng biện pháp hoà bình, chí ít cũng trì hoãn cuộc chiến tranh để ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng cho toàn quốc kháng chiến.
Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại Hà Nội, quân đội thực dân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16-12-1946 như đốt nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây ra vụ tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô  Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946 quân Pháp sẽ hành động. 
Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Vào hồi 20 giờ ngày 19/12/1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngày 20/12/1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã nêu bật lên khát vọng hoà bình, sự nhân nhượng của dân tộc, đồng thời đã tiếp tục phát huy tinh thần Nam quốc sơn hà Nam Đế cư của tổ tiên ta thủa trước; là sự thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia. Đó là lời của Tổ quốc, của dân tộc thiết tha kêu gọi con Lạc, cháu Hồng đứng lên giữ nước; đồng thời, cũng là lời tuyên bố đanh thép với bọn thực dân cướp nước về ý chí, sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Đáp Lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng lên kháng chiến. Hình tượng những chiến sĩ Cảm tử quân Hà Nội “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mãi mãi là biểu tượng bất tử về một cuộc chiến tranh nhân dân mà mỗi người dân đều sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc, để rồi 9 năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu đã minh chứng cho điều khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

Ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) - động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân cần hòa bình để xây dựng nước nhà và củng cố lực lượng về mọi mặt, cho nên ta đã nhân nhượng với thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Nhưng thực dân Pháp vẫn cố tình cướp nước ta một lần nữa.
Để vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân pháp, nêu lên ý chí sắt đá, quyết kháng chiến đến cùng của dân tộc ta, đồng thời chỉ ra những nét cơ bản về đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện và khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và tới Đài phát thanh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và được phát đi ngày 20/12/1946.
 “Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm”.
Đáp lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng chiến đúng đắn do Đảng vạch ra. Đêm 19/12/1946, tiếng súng giết giặc của thủ đô Hà Nội đã nổ, mở đầu cuộc kháng chiến. Quân và dân cả nước cũng đã vùng lên kháng chiến và giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc ta.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo của dân tộc ta.
70 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc.

Ngày nay, Lời kêu gọi vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là động lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn cách mới hiện nay. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế./

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” bài học trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình” hiện nay

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày cuối năm 1946 vẫn luôn là một dấu ấn đặc biệt, thể hiện tư duy sắc bén, tầm nhìn chiến lược của vị lãnh tụ tối cao trong thời khắc quan trọng của lịch sử dân tộc và để lại nhiều bài học quý báu.
Trước việc thực dân Pháp leo thang chiến tranh xâm lược, ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước và đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống anh hùng, bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; là hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh với sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và bản lĩnh trí tuệ của người Việt Nam.
Bảy thập kỷ trôi qua kể từ ngày mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, những dấu tích của những năm tháng hào hùng đó có thể bị bào mòn bởi thời gian, nhưng âm hưởng, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử để lại trên mảnh đất này đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện chống phá, tìm mọi cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó, chiến lược “diễn biến hòa bình” được coi là biện pháp hữu hiệu hàng đầu để chúng điên cuồng chống phá.
Mặc dù thời gian đã trôi xa nhưng tinh thần của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn đang nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngay từ trong thời bình  trên mặt trận phòng, chống “diễn biến hòa bình”.
Một là: bài học về quyết định thời điểm phát động cuộc kháng chiến toàn quốc đúng lúc.
Cần phải nhận thức rằng, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã tiến hành nhiều năm nay, trên nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị xã hội, vì vậy, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên trì, kiên quyết, mọi lúc, mọi nơi khi “đất nước chưa nguy”. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng”, trên thực tế, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều biện pháp, kể cả phải “nhân nhượng” để tránh một cuộc chiến tranh có thể xẩy ra.
Trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” hiện nay, chúng ta phải quán triệt quan điểm lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện một cách kiên trì, khoa học và quyết liệt những nội dung trong văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XII về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm “làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái”. Ngăn chặn ngay từ đầu, có hiệu quả những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch, đó là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi, hạn chế tối đa tác động của “diễn biến hòa bình” đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Hai là: nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy lực lượng tham gia sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đó chính là lực lượng toàn dân. Người nhắc tới hai lần cụm từ “đồng bào”, từ “đồng bào” có ý nghĩa như từ “đồng bọc”, sinh ra cùng một “bọc”, có chung nguồn cội dân tộc. Vì vậy hai chữ “đồng bào” được đặt riêng trong hai câu, ở hai dòng trong tổng thể lời kêu gọi rất ngắn gọn như lời hiệu triệu của hồn thiêng sông núi, của “tổ tiên Lạc – Hồng”, của anh linh các anh hùng dân tộc đối với mọi người dân Việt Nam. Cụ thể hơn, người kêu gọi toàn dân và toàn quân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc” và “anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân”.
Vì vậy, để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, cần tạo nên sức mạnh vô địch bằng cách phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quan điểm “sức mạnh tổng hợp” đã được thực hiện thành công trong đấu tranh cách mạng, trong chiến tranh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc trước đây phải được phát huy cao độ và phát triển trong cuộc đấu tranh mới này. Mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức và mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, coi cuộc đấu tranh này là nhiệm vụ chung, có trách nhiệm tham gia tự nguyện, tích cực, có hiệu quả để nhân lên sức mạnh chung của toàn dân tộc mạnh hơn hẳn sức mạnh chống phá của các thế lực thù địch. Thực hiện mỗi người là một chiến sĩ trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình”, trong đó cán bộ, đảng viên phải là người đi tiên phong.
Ba là: giữ vững, củng cố và nâng cao niềm tin về mục tiêu lý tưởng cách mạng.
Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Đó là niềm tin đúng đắn của Người dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Vì vậy, chúng ta phải chủ động định hình, thiết lập hệ thống khung lý luận, luận cứ, luận điểm đấu tranh tư tưởng, lý luận khoa học, sẵn sàng tuyên truyền và đáp trả những quan điểm, tư tưởng thù địch. Các cơ quan khoa học, các học viện, nhà trường hàng đầu về nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong cả nước phải là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong việc nghiên cứu, tham mưu cho Đảng, Nhà nước để xác lập hệ thống các luận cứ đấu tranh tư tưởng, lý luận chính xác, thống nhất; đồng thời giáo dục, tuyên truyền trong các cơ quan, đơn vị, tạo dựng một hệ thống cán bộ chuyên trách, sắc sảo vềđấu tranh và hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục quần chúng.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là niềm tự hào, là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói riêng và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./

Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” - Bài học còn vẹn nguyên giá trị

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi lần trước họa ngoại xâm, toàn thể quốc dân đồng bào đã nhất tề đứng dậy chống giặc cứu nước, bảo vệ bờ cõi sơn hà trước lời hiệu triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”,… khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kế thừa hào khí chống giặc, giữ nước trong lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh “ngàn cân treo sợi tóc” bằng một quyết định quan trọng, một quyết định thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946- ngày toàn quốc kháng chiến, đó là một dấu ấn đặc biệt, thể hiện tư duy sắc bén, tầm nhìn chiến lược của vị lãnh tụ tối cao trong những thời đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc và để lại nhiều bài học quý báu cho hôm nay và mai sau..
          Sau 9 năm thực hiện Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam muôn người như một, chung sức đồng lòng, nếm mật nằm gai, khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng - chí không mòn, đã làm nên một “Điện Biên lịch sử - lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Một nửa nước được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước thắng lợi sau này.
          Đã gần bảy thập kỷ trôi qua kể từ ngày mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, những dấu tích của những năm tháng hào hùng đó có thể bị bào mòn bởi thời gian, nhưng âm hưởng, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử để lại trên mảnh đất này đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, rất cần chắt lọc, vận dụng một cách sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay và mai sau:
          Thứ nhất, đó là bài học về quyết định thời điểm phát động cuộc kháng chiến toàn quốc đúng lúc, đúng thời cơ. Khi không còn đường nào khác, khi không còn một chút hy vọng nào cứu vãn nền hoà bình do dã tâm xâm lược của kẻ thù thì chúng ta phải chủ động đứng lên chống lại chúng. Do vậy, phải luôn tranh thủ thời gian, chủ động chuẩn bị lực lượng về mọi mặt và khi đã hạ quyết tâm tiến hành kháng chiến thì phải chủ động, kiên quyết tấn công kẻ thù, ngăn chặn từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn mọi mưu đồ xâm lược của chúng. Thực tế đã minh chứng, khi chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động và ra Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” vào thời điểm chín muồi nhất, đúng lúc, đúng thời cơ nhất, do đó đã đem lại kết quả to lớn, tránh tổn thất cho ta, giảm sức mạnh của địch.
          Thứ hai, đó là bài học về quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do. Nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là bất khả xâm phạm. Trách nhiệm của mỗi con dân đất Việt là phải giữ vững nền độc lập, tự do ấy. Do đó, khi phải đối mặt với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần là thực dân Pháp, cho dù tình thế đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thì chúng ta luôn luôn phải giữ vững quyết tâm sắt đá để bảo vệ nền độc lập, tự do. Bài học đó được khơi nguồn từ dặm dài lịch sử, được phát huy cao độ trong những ngày “Toàn quốc kháng chiến”, trải dài cùng dòng chảy thời gian nó vẫn mang tính lí luận và thực tiễn sâu sắc.
          Thứ ba, đó là bài học về sớm hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc đúng đắn, sáng tạo. Để có quyết định kháng chiến toàn quốc kịp thời đúng lúc, thì trước đó, từ ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu rõ chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc và đường lối trường kỳ kháng chiến. Ngày 12/12/1946, một tuần trước ngày Toàn quốc kháng chiến, Thường vụ Trung ương Đảng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra bản chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, nêu ra mục đích cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta; nêu rõ: tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình, kháng chiến, cơ quan chỉ đạo kháng chiến, những điều răn trong khi kháng chiến, các khẩu hiệu chỉ đạo hành động trong kháng chiến,... Chính đường lối kháng chiến đúng đắn của Trung ương Đảng đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc, khai thác động viên được sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc Việt Nam.

          Có thể nói, quyết định phát động “Toàn quốc kháng chiến” đúng lúc, đúng thời điểm không chỉ hạn chế được sức mạnh của kẻ thù mà còn phát huy được thế mạnh kháng chiến của ta. Nhờ có chủ trương này, chúng ta đã kìm được chân địch ở lại thành phố trong một thời gian khá dài, tạo điều kiện cho các các cơ quan của Trung ương, Chính phủ và các tổ chức di chuyển lên Việt Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài. Năm tháng qua đi, đất nước có biết bao đổi thay, nhưng giá trị to lớn của Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” vẫn mãi là niềm tự hào, là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. 

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” – quyết tâm kháng chiến chống giặc cứu nước của dân tộc ta

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi khi đất nước gặp họa ngoại xâm, toàn thể dân tộc ta đều nhất tề đứng dậy chống giặc cứu nước, bảo vệ Tổ quốcthiêng liêng của dân tộc. Vẫn còn đây những lời hiệu triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”,… của cha ông ta bao đời để lại đã khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Kế thừa truyền thống chống giặc, giữ nước của dân tộc, đứng trước vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua bằng một quyết định quan trọng thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946- ngày toàn quốc kháng chiến.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đã phải đối phó với muôn vàn khó khăn. Bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16 trở ra là 20 vạn quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16 trở vào có hơn 1 vạn quân Anh và hơn 6 vạn quân Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập lại chính quyền tay sai và cướp nước. Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành.Tình thế đất nước ta lúc bấy giờ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp quay lại nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai.Sau đó chúng mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để rảnh tay dối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc, nêu rõ thiện chí hoà bình, mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hoà bỉnh. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18/12/1946, tướng Môlie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20/12/1946.
Trước tình thế đó, kẻ thù đã buộc dân tộc Việt Nam ta trước hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Nhận định đánh giá chính xác tình hình và theo nguyện vọng thiết tha của toàn dân tộc, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta quyết tâm đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Ngày 18 và 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Thành phố Pĩà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19/12/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày 19/12/1946) được phát đi khắp cả nước:
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch cứu nước, từng câu từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Người nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam, động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Đáp lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng chiến đúng đắn do Đảng vạch ra, thanh niên cả nước cùng toàn dân nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước. Đêm 19/12/1946, tiếng súng giết giặc của thủ đô Hà Nội đã nổ, mở đầu cuộc kháng chiến. Quân và dân cả nước cũng đã vùng lên kháng chiến và giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc ta. Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Đảng, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân ta anh dũng bước vào cuộc chiến tranh yêu nước thần kỳ để rồi chín năm sau, chúng ta đã làm nên một Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”. Ngày 20/7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, giặc Pháp phải rút khỏi miền Bắc, một nửa nước thân yêu của chúng ta được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước thắng lợi sau này, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất tổ quốc Việt Nam.

Đã 70 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”, nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi bất hủ ấy vẫn mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam, mãi là lời hịch của non sông, một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, thể hiện ý thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

70 năm ngày toàn quốc kháng chiến

Sau cách mạng tháng tám 1945, thực dân Pháp tìm mọi cách thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa.
Bội ước hiệp định sơ bộ 6/3/1945 và thoả ước 19/4/1945, thực dân Pháp ráo riết tăng cường lực lượng và đến tháng 11/1946, số quân của chúng đã lên tới 10 vạn. Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ đô Hà Nội.
Ngày 18 và 19/12/1946, hội nghị mở rộng Ban chấp hành Trung Ương Đảng họp khẩn cấp ở Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến và chỉ ra đường lối kháng chiến lâu dài.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Người nói:
     “Chúng ta muốn hoà bình, chúng bắt chúng ta nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
     Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
     Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
     Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…”
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Người là một trong những văn kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Điều kỳ tuyệt là cho đến tận bây giờ, âm vang của những ngôn từ ngắn nhưng có sức sống mãnh liệt của nó vẫn làm xúc động trái tim của hàng triệu con người. 198 chữ của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một kỳ văn của sức mạnh, một tuyệt bút bất tử với thời gian. Đó thực sự là bản Tuyên ngôn thứ hai của nền độc lập. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sự đắng cay, tủi nhục của kiếp sống nô lệ, chính vì vậy, Người đã đoan quyết bằng ý chí và tâm huyết của 20 triệu con người rằng: Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Đó là thông điệp của trái tim, xuất phát từ lẽ sống còn mà không một người dân Việt Nam nào không hiểu rõ: Độc lập, tự do còn quý hơn cả máu của chính mình. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã truyền máu, tiếp lửa cho tinh thần bất khuất của dân tộc.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chỉ thị  Toàn dân kháng chiến  của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 22- 12- 1946 và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh là ba văn kiện xác định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta.
Điều làm cho không ít nhà lịch sử quân sự phải bất ngờ là trong một văn kiện ngắn như Lời kêu gọi, Hồ Chủ tịch vẫn trình bày một cách vừa đầy đủ, vừa sáng rõ toàn bộ đường lối kháng chiến của Đảng ta. Tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập, tự chủ là nguyên tắc thứ nhất: Ai cũng phải ra sức cứu nước.
Xuất phát từ so sánh lực lượng mà phần bất lợi là thuộc về ta, Hồ Chủ tịch kêu gọi cuộc kháng chiến của ta nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc thứ hai, đó là kháng chiến toàn dân. Nguyên tắc thứ ba là kháng chiến toàn diện: Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.
Hồ Chủ tịch đã tiên định cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, nhưng chắc chắn sẽ thành công. Đây cũng là nguyên tắc thứ tư, kháng chiến trường kỳ: Dù phải gian lao kháng chiến, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Đường lối kháng chiến suốt chín năm hào hùng được trình bày đầy đủ trong một văn kiện dài chưa đến 200 chữ, đó là kỉ lục của sự mẫn tiệp. Hơn thế nữa, áng văn lịch sử đó còn tiếp thêm sức mạnh và niềm tin vô bờ bến cho nhiều triệu con người, là một kỉ lục về năng lực truyền cảm, uy lực cuốn hút của một thiên tài.
Những lời kêu gọi đặc biệt ấy đã vang lên trong một quá khứ rất xa, nhưng cho đến nay vẫn còn vẹn nguyên tinh thần và mong ước, chứng tỏ sức sống thực tiễn chân lí bất hủ của nó.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo
70 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc.
Ngày nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế.

Kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến, đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại những bài học sâu sắc của lịch sử, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng tạo nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

“ Ý nghĩa Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - Lời thề thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhân dân ta được hưởng tự do và làm chủ vận mệnh của đất nước. Đó là điều kiện thuận lợi căn bản nhất để nhân dân ta thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
   Nhưng, từ cuối năm 1945 đến cuối năm 1946, nước ta đứng trước những khó khăn chồng chất: nạn đói, nạn dốt, giặc ngoài, thù trong, mà nghiêm trọng nhất là sự hiện diện của gần 30 vạn quân Trung Hoa Dân quốc và các nước đế quốc dưới danh nghĩa Đồng minh, chiếm đóng các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khó khăn lớn nhất lúc này là các quân đội nước ngoài từ bốn phương cùng dồn dập kéo tới. Bọn ở gần, bọn ở xa. Chúng khác nhau về màu da, tiếng nói, nhưng rất giống nhau ở một dã tâm: muốn thôn tính nước ta, muốn đẩy chúng ta trở về với cuộc sống nô lệ”.
Bất kể một cuộc cách mạng nào vừa thành công cũng đều gặp nhiều khó khăn, nhưng hoàn cảnh nước ta lúc đó, những khó khăn, thách thức là đặc biệt nghiêm trọng: chính quyền cách mạng còn non trẻ chưa được củng cố, mặt trận đoàn kết toàn dân chưa rộng khắp, lực lượng vũ trang còn ít ỏi và non yếu về nhiều mặt; đất nước bị đế quốc bao vây bốn phía. Sự mất còn của cách mạng, của nền độc lập, thống nhất quốc gia đặt ra một cách trực tiếp, tình thế đất nước tựa như “ngàn cân treo trên sợi tóc”.
Xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta là: đất nước được hoà bình, ổn định để tập trung tài lực vào xây dựng cuộc sống mới; từ đánh giá âm mưu của các thế lực đế quốc và căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng lúc đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định chủ trương lãnh đạo cách mạng là phải có chiến lược và sách lược đúng đắn, vừa kiên quyết đấu tranh để giữ vững nền độc lập, thống nhất quốc gia, vừa nhân nhượng, hòa hoãn với kẻ thù để tránh cùng một lúc phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở hai miền đất nước (với quân Trung Hoa Dân quốc và quân Pháp), hoặc một cuộc chiến tranh quy mô cả nước với thực dân Pháp; đồng thời, tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Cuối năm 1945, đầu năm 1946, chúng ta thực hiện sách lược “Hoa - Việt thân thiện”, hoà hoãn với Trung Hoa Dân quốc và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách để tránh một cuộc xung đột quân sự lớn ở miền Bắc, tập trung đấu tranh chống thực dân Pháp đang gây chiến tranh ở miền Nam. Đầu năm 1946, bọn đế quốc thoả thuận để cho Pháp độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình mới, ta lại thực hiện sách lược “hoà để tiến”, hoà hoãn với thực dân Pháp bằng Hiệp định Sơ bộ, cuộc đàm phán tại Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị chính thức ở Phông-ten-nơ-bờ-lôTạm ước 14-9-1946 để đuổi quân Trung Hoa Dân quốc về nước và cố gắng giải quyết cuộc xung đột Pháp - Việt bằng biện pháp hoà bình, chí ít cũng trì hoãn cuộc chiến tranh để ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng cho toàn quốc kháng chiến. Sau khi thấy con bài “ngoại giao pháo hạm”, dùng thủ đoạn đàm phán trên thế mạnh không khuất phục được Chính phủ và nhân dân Việt Nam, giới cầm quyền hiếu chiến Pháp đã quyết tâm dùng vũ lực, nhằm cướp nước ta một lần nữa. Ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới; chúng liên tiếp vi phạm các điều khoản đã được ký kết tại Hiệp định Sơ bộ, thực hành tiến công và tàn sát nhân dân ta hết sức dã man. Ngày 18-12-1946, Pháp đã chuyển cho Chính phủ ta bức tối hậu thư: đòi ta phá bỏ những vật chướng ngại trên đường phố để quân Pháp tự do đi lại; trao cho chúng quyền giữ trật tự trị an ở Hà Nội; để quân Pháp đến chiếm đóng nhiều vị trí quan trọng trong Thành phố… Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: “Sự thật đã chứng minh rằng, thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14 tháng 9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp (ngày 18-12-1946) tại làng Vạn Phúc (nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định khả năng hoà hoãn đã hết và quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và ngay trong đêm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”kêu gọi đồng bào cả nước và các lực lượng vũ trang nhất tề đứng lên đánh quân xâm lược, giữ gìn đất nước.
Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu thiện chí hoà bình của Việt Nam, nhưng bị phía Pháp khước từ và họ quyết chọn con đường vũ trang xâm lược: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”Người khẳng định rõ ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.Khi Tổ quốc lâm nguy, Người kêu gọi các giới đồng bào cả nước bằng vũ khí và mọi loại dụng cụ có thể dùng làm vũ khí, nhất tề đứng lên đánh giặc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Mục đích cuộc kháng chiến là “Việt Nam độc lập và thống nhất…”. Kết thúc Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Người truyền niềm tin thắng lợi cho toàn dân, toàn quân ta “Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.
Việt Nam là một nước sớm dựng nền độc lập, lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên ý chí tự lực tự cường, anh hùng bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nhiều thế lực xâm lược lớn mạnh, hung bạo hàng đầu thế giới từng xâm lược và thống trị nước ta, nhưng chúng đều bị nhân dân ta đánh bại. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp, với sức mạnh của một nước tư bản đế quốc, lại lợi dụng được thời điểm thế và lực nước ta đang yếu, chúng đã xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước ta. Nhân dân ta đã nhiều lần nổi dậy đánh thực dân Pháp để giành quyền độc lập. Người trước ngã, người sau tiếp bước, “bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người nước Nam đánh Tây” như lời khẳng định của Nguyễn Trung Trực. Trải qua bao cuộc đấu tranh quyết liệt, đến cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta đã khôi phục được nền độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục tinh thần Nam quốc sơn hà Nam Đế cư của tổ tiên ta thủa trước; là sự thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia. Đó là lời của Tổ quốc, của dân tộc thiết tha kêu gọi con Lạc, cháu Hồng đứng lên giữ nước; đồng thời, cũng là lời tuyên bố đanh thép với bọn thực dân cướp nước về ý chí, sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Đáp Lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng lên kháng chiến. Hình tượng những chiến sĩ Cảm tử quân Hà Nội “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mãi mãi là biểu tượng bất tử về một cuộc chiến tranh nhân dân mà mỗi người dân đều sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của quân và dân ta, đã minh chứng cho điều khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cách đây đã 70 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của Bác Hồ vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm 30 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp của đất nước lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Đảng ta xác định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Để có thể động viên và phát huy sức mạnh khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc như trong công cuộc chống ngoại xâm trước đây vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng hiện nay, chúng ta cần coi trọng giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân; đồng thời, phải thực sự xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó có các hình thức và cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực hoạt động: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,…; mọi cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự là “công bộc” của dân. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền nhà nước phải luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Chỉ có như vậy, chúng ta mới tạo được động lực to lớn để toàn dân phát huy mọi tiềm lực vật chất và tinh thần trong sự nghiệp xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.

“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” đã để lại cho chúng ta một bài học quý giá, đồng thời cũng là lời cảnh báo đối với các thế lực xâm lược rằng: Mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì cả dân tộc Việt Nam sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một dân tộc hơn 90 triệu người, với ý chí, quyết tâm thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, chúng ta có đủ sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bất kể chúng lớn mạnh thế nào và từ đâu tới.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” – Lời thề thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã bội ước hiệp định sơ bộ và thỏa ước năm 1945, ráo riết tăng cường lực lượng. Đến tháng 11/1946, số quân của chúng đã lên tới 10 vạn. Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ đô Hà Nội.
          Trước tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” đó, thể theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân, ngày 18 và 19/12/1946 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn cấp ở Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chỉ ra đường lối kháng chiến lâu dài.
          Vào hồi 20 giờ ngày 19/12/1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngày 20/12/1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.
          Đáp Lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng lên kháng chiến. Hình tượng những chiến sĩ Cảm tử quân Hà Nội “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mãi mãi là biểu tượng bất tử về một cuộc chiến tranh nhân dân mà mỗi người dân đều sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của quân và dân ta, đã minh chứng cho điều khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
          Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cách đây đã 70 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của Bác Hồ vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam.
          Hiện nay, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm 30 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp của đất nước lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Đảng ta xác định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Để có thể động viên và phát huy sức mạnh khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc như trong công cuộc chống ngoại xâm trước đây vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng hiện nay, chúng ta cần coi trọng giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân; đồng thời, phải thực sự xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó có các hình thức và cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực hoạt động: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,…; mọi cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự là “công bộc” của dân. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền nhà nước phải luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Chỉ có như vậy, chúng ta mới tạo được động lực to lớn để toàn dân phát huy mọi tiềm lực vật chất và tinh thần trong sự nghiệp xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.

          “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” đã để lại cho chúng ta một bài học quý giá, đồng thời cũng là lời cảnh báo đối với các thế lực xâm lược rằng: Mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì cả dân tộc Việt Nam sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một dân tộc hơn 90 triệu người, với ý chí, quyết tâm thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, chúng ta có đủ sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bất kể chúng lớn mạnh thế nào và từ đâu tới.

Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” khí thế vang vọng trường tồn

Mỗi dịp tháng 12 đến, trong tâm thức những người con đất Việt lại được đánh thức bởi lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đã gần 70 năm trôi qua, đất nước đã kinh qua hai cuộc chiến tranh nhiều gian khổ và hi sinh, với những biến đổi to lớn theo xu thế của thời đại. Nhưng khí thế hào hùng của ngày 19/12/1946 như một bản anh hùng ca cách mạng vẫn còn ngân vang mãi trong chiều dài lịch sử dân tộc như nhắc nhở chúng ta về tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất trong gìn giữ non sông đất nước.
Ngược về lịch sử, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhân dân ta được hưởng tự do và làm chủ vận mệnh của đất nước. Đó là điều kiện thuận lợi căn bản nhất để nhân dân ta thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chính quyền non trẻ phải đối diện với tình thế hết sức hiểm nghèo, đó là tình trạng "thù trong, giặc ngoài" cùng những thách thức, khó khăn về kinh tế, tài chính, văn hóa - xã hội, đặt chính quyền cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp phát xít Nhật đã gây hấn nổ súng ở Nam bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ đã kiên trì, khéo léo giữ độc lập, hòa hoãn với thực dân Pháp để củng cố lực lượng chuẩn bị cho kháng chiến.
Ngày 6/3/1946, tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ và tạm ước 14/9/1946. Tuy nhiên, Pháp đã bội ước. Chúng ráo riết tăng cường lực lượng và đến tháng 11/1946, số quân của thực dân Pháp đã lên tới 10 vạn. Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ đô Hà Nội. Dã tâm gây hấn của thực dân Pháp bộc lộ rõ rệt nhất khi chúng gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí, chậm nhất là ngày 20/12/1946, quân Pháp sẽ nắm quyền cai quản Hà Nội.
Trước tình thế cấp bách đó, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân dân, ngày 18 và 19/12/1946, hội nghị mở rộng BCH Trung ương Đảng họp khẩn cấp ở Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến và chỉ ra đường lối kháng chiến lâu dài.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…”
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một luồng gió thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc, tạo sức mạnh, tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Tiếp tục khẳng định tinh thần “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư” của tổ tiên ta, là sự thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Đó là lời của Tổ quốc, của dân tộc thiết tha kêu gọi con Lạc, cháu Hồng đứng lên giữ nước; đồng thời, cũng là lời tuyên bố đanh thép với bọn thực dân cướp nước về ý chí, sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
 Vào 20h ngày 19/12/1946, tại Hà Nội, quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu bảo vệ thủ đô với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ngày 19/12/1946 trở thành ngày mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp, đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước quật khởi của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc ta hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, một lần nữa được khơi dậy, phát huy cao độ và tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn. Đặc biệt, quân và dân thủ đô Hà Nội đã chiến đấu không tiếc máu xương, của cải để bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ an toàn về chiến khu. Cùng với thủ đô Hà Nội, các tỉnh, thành từ 3 miền Bắc, Trung, Nam đã đứng lên chiến đấu, làm tiêu hao sinh lực địch và khẩn trương xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cách đây gần 70 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của Bác vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp của đất nước lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Đảng ta xác định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Để có thể động viên và phát huy sức mạnh khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc như trong công cuộc chống ngoại xâm trước đây vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng hiện nay, chúng ta cần coi trọng giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân; đồng thời, phải thực sự xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó có các hình thức và cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực hoạt động: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…; mọi cán bộ, đảng viên, phải thực sự là “công bộc” của dân. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền nhà nước phải luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Chỉ có như vậy, chúng ta mới tạo được động lực to lớn để toàn dân phát huy mọi tiềm lực vật chất và tinh thần trong sự nghiệp xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Ngày 25/11/2016, tại Hà Nội trong tham luận gửi đến hội thảo khoa học cấp Quốc gia với chủ đề: “Toàn quốc kháng chiến - Ý chí bảo vệ độc lập, tự do và bài học lịch sử do Bộ Quốc phòng chủ trì, đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng khẳng định: Tuy sự kiện lịch sử trọng đại này đã lùi xa, song ý chí sắt đá, tinh thần quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” vẫn vẹn nguyên trong mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội. “Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xây dựng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tạo cơ sở cho việc thực hiện quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống”

“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” đã để lại cho chúng ta một bài học quý giá, đồng thời cũng là lời cảnh báo đối với các thế lực xâm lược rằng: Mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì cả dân tộc Việt Nam sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một dân tộc hơn 92 triệu người, với ý chí, quyết tâm thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, chúng ta có đủ sức mạnh cả về vt chất lẫn tinh thần để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bất kể chúng lớn mạnh thế nào và từ đâu tới.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” lời hịch non sông

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, Người là kết tinh của tất cả phẩm chất cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, của khát vọng dân tộc Việt Nam, cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cách mạng, về ý chí kiên trì, bền bỉ, phấn đầu vì một mục tiêu duy nhất đó là Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” và “Ham muốn tột bậc của tôi là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là một trong những di sản vô cùng quý giá mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn Dân và toàn Quân ta, là động lực to lớn, cổ vũ tinh thần cho dân tộc ta trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

          Lịch sử dân tộc Việt Nam là quá trình dựng nước đi đôi với giữ nước, đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng hết sức vẻ vang. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc ta mãi mãi khắc ghi những giờ phút sục sôi, nhân dân nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi theo lời hiệu triệu của “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”…

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền đã thuộc về tay nhân dân lao động, người dân Việt Nam từ đây trờ thành những người chủ thực sự của đất nước. Song một chính quyền non trẻ, một dân tộc đói, nghèo, dốt, hậu quả từ chính sách ngu dân và sự bóc lột tàn bạo, kiệt quệ của thực dân Pháp. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm bủa vây, tình hình đất nước trở nên “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong thời điểm đó, thực dân Pháp lại tiếp tục dã tâm một lần nữa biến Việt Nam thành thuộc địa. Sau tròn 87 năm, một lần nữa thực dân Pháp lại nổ súng cướp nước ta vào ngày 23.9.1945. Chúng liên tục gây hấn, tàn sát đồng bào ta, mặc dù Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương theo đuổi hòa bình “ còn nước còn tát” để tránh đổ máu cho hai dân tộc Việt- Pháp. Đáp lại thiện chí đó, thực dân Pháp càng thể hiện rõ dã tâm hơn, bắt buộc dân tộc ta phải đứng lên đánh giặc.
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa”.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Đó là lời tuyên chiến với kẻ thù, đồng thời, đó cũng là tiếng lòng của hàng triệu người dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam được sống trong độc lập, tự do, hòa bình.
Trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, không có cách nào khác đó là cả dân tộc đoàn kết một lòng “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc”, sử dụng bạo lực cách mạng “ ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Với một niềm tin tất thắng, người khẳng định rằng “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm”.
Toàn văn “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị, đanh thép, có sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Bác nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; là hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ dứt khoát và kiên định: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.  
Đúng như dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau chín năm vào năm 1954 - “Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chứng tỏ sức mạnh của lòng yêu nước phi thường của quân và dân ta, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc gian khổ chiến đấu và hy sinh dành lại một nửa Việt Nam hòa bình làm tiền đề cho một Việt Nam độc lập và thống nhất. Ba mươi năm sau vào mùa Xuân 30/4/1975, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm cờ chiến thắng lên nóc Đinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày đem lại độc lập tự do cho dân tộc, Bắc - Nam thống nhất, sum họp một nhà.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo.

          70 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ( 19/12/2016- 19/12/2016) vẫn có giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát động đúng thời điểm như một cương lĩnh vang dậy non sông, đất nước làm thức tỉnh lương tri và nhân loại tiến bộ thể hiện ý thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế. Lịch sử cũng vẫn âm vang lời Bác gọi, đầy ắp hào khí, kết tinh của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, để cả dân tộc vùng lên, viết tiếp những trang sử mới, rất đỗi hào hùng.


Kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến, đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại những bài học sâu sắc của lịch sử, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng tạo nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng đưa đất nước bước ra khỏi tình trạng tham nhũng, lãng phí, nghèo nàn lạc hậu, phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng và toàn diện với nền kinh tế thế giới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Ngày Toàn quốc kháng chiến

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám đến gặp, trao tận tay cho Xanhtơni một bức thư ngắn, nội dung tỏ ý rất đáng tiếc về tình hình đã trở nên quá xấu và đề nghị: Trong khi chờ đợi quyết định của Pa-ri, tôi mong rằng ông sẽ cùng ông Hoàng Minh Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại.Nhưng Xanhtơni đã từ chối không tiếp và hẹn đến hôm sau mới nhận thư. Như vậy, mọi nỗ lực của ta nhằm duy trì hoà bình đã bị kẻ thù bác bỏ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ toạ Phiên họp bất thường của Thường vụ Trung ương Đảng được bắt đầu từ ngày 18/12/1946. Hội nghị đã quyết định phát dộng cuộc kháng chiến toàn quốc vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946.
Sau khi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp trao mật lệnh cho các mặt trận về ngày giờ cuộc giao chiến trong toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến tại gác 2, ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương làng Vạn Phúc (Hà Đông).
Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến toàn quốc vang rền, bắt đầu từ mặt trận Hà Nội, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền thanh khắp cả nước. Đây là một lời hịch cứu nước kết tinh ý chí sắt đá và trí tuệ sáng suốt của Hồ Chí Minh và của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc ta quyết tâm đứng lên chiến đấu vì độc lập của dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Văn kiện lịch sử quan trọng này chỉ có 205 chữ, song nó đã phác thảo ra những nét cơ bản về đường lối của kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta là: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến và dựa vào sức mình là chính.
Ngày Toàn quốc kháng chiến là một ngày LS, đánh dấu mốc son chói lọi trên con đường đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc ta trên 2 phương diện:
Một là, toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh và Đảng ta, một đúng đắn vốn là kết quả của một thời kỳ Người và Đảng ta sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua những thử thách ghê gớm nhất.
Hai là, quyết định lịch sử này mở ra một thời kỳ kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài đánh bại đế quốc Pháp, mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Sự tồn tại của chính quyền cách mạng và nền độc lập của dân tộc bị đe doạ do sự trỗi dạy mạnh mẽ của nhiều lực lượng phản động trong nước và sự bao vây của các lực lượng quân đội nước ngoài. Từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, với danh nghĩa và quân đồng minh đến giải giáp quân đội Nhật, 20 quân Tưởng ô hợp đã tràn vào nước ta với mục tiêu: diệt Cộng, cầm Hồ. Từ vĩ tuyến 16 vào Nam, quân Anh tràn vào, đi theo quân Anh là một đại đội lính Pháp và ngay trong ngày 23/9/1945, quân Pháp đã nổ súng tấn công và xâm lược miền Nam nước ta. Đằng sau những hành động lấn tới đó của các lực lượng nước ngoài vào nước ta đều có sự yểm trợ của Mỹ. Các lực lượng phản động trong và ngoài nước xuất hiện và đến nước ta với nhiều danh nghĩa khác nhau nhưng chúng có cùng chung một mục đích là tiêu diệt chính quyền Việt Nam DCCH và nền độc lập dân tộc mà ta mới giành được.
Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã sáng suốt, chủ động lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời, có hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhất trong tình thế vận nước đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đã được coi là nhiệm vụ có tính chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn này.
Một là: Về kiến quốc, củng cố và xây dựng chế độ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng ta xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Một cuộc Tổng tuyển cử thành công sớm nhất trong các cuộc cách mạng trên thế giới. Xây dựng và thông qua Hiến pháp, xác lập cơ sở pháp lý và những nguyên tắc dân chủ của chính quyền nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ, ký hơn 200 Sắc lệnh về tổ chức bộ máy Nhà nước, các Bộ và Uỷ ban hành chính các cấp về tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 2/3/1946, thành lập Chính phủ liên hiệp Kháng chiến. Để diệt giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào hũ gạo cứu đói, kêu gọi đồng bào ta sẻ cơm, nhường áo để giúp đỡ lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.
Hai là: Lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam. Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng ở miền Bắc từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946.
Mặc dù luôn xác định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp nhưng trong tình thế đầy khó khăn thử thách, để tránh tình trạng cùng một lúc dân tộc ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra nhiều đối sách phù hợp và sáng tạo. Trước tiên là hoà Tưởng đánh Pháp. Ba là: Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc, từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946.
Sau khi chiếm được Sài Gòn và đánh ra Nam Trung bộ, thực dân Pháp nóng lòng đánh ra miền Bắc. Theo dõi quan hệ Pháp – Hoa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ cả Pháp và Tưởng sẽ đi đến chấm dứt xung đột, chúng sẽ dàn xếp để quân Pháp đổ bộ ra Bắc, nên đã đưa ra giải pháp nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do trong Khối liên hiệp Pháp với việc Ký Hiệp định Sơ bộ Pháp – Việt ngày 6/3/1946.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, là kết tinh trực tiếp của quyết định đúng đắn, sáng suốt đó. Trong lời kêu gọi lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ nguyên nhân của cuộc kháng chiến. Chỉ ra dã tâm xâm lược muốn đặt ách nô lệ lên dân ta một lần nữa của TD Pháp. Người nêu rõ lập trường của DT trước sự lấn tới và dã tâm xâm lược của TD Pháp: Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Người đã phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và chỉ rõ phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi cách đánh bằng mọi thứ vũ khí, trang bị.
Hỡi đồng bào!Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”
Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ cả dân tộc ta quyết tâm một lòng một dạ đứng lên đánh quân xâm lược. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của ngày Toàn quốc kháng chiến đã liên tục được phát huy trong hơn ba ngàn ngày kháng chiến, chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi Điện biên lịch sử huy hoàng.
Bài học và ý nghĩa lịch sử của Ngày Toàn quốc KC với hôm nay.
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quyết định thời điểm phát động cuộc kháng chiến toàn quốc đúng lúc, đúng thời cơ.
Khi không còn đường nào khác. Khi đã không còn một chút hy vọng nào cứu vãn hoà bình do dã tâm xâm lược và sự ngoan cố của kẻ thù đế quốc thì phải chủ động vùng lên chống lại chúng.
Hai là, khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do, GPDT và những mục tiêu cơ bản của cách mạng nước ta, “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Kiên trì kháng chiến không nao núng trước sức mạnh và mọi sự uy hiếp của kẻ thù. Nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước, tiếp nói và phát huy truyền thống kiên cường chống ngoại xâm của dân tộc. Phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc và tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Ba là, sớm hoạch định đường lối KC và kiến quốc đứng đắn, sáng tạo
Để có kháng chiến toàn quốc kịp thời đúng lúc, thì trước đó, từ ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu rõ chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc và đường lối trường kỳ kháng chiến. Ngày 12/12/1946, một tuần trước Ngày Toàn quốc kháng chiến, Thường vụ TW Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến”. Trong đó, đã nêu ra mục đích cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta: Tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình kháng chiến, cơ quan chỉ đạo kháng chiến, những điều răn trong khi kháng chiến, các khẩu hiệu chỉ đạo hành động trong kháng chiến…
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sáng tạo một phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng – chiến tranh toàn dân.
Với khoa học, nghệ thuật quân sự độc đáo tổ chức được toàn dân kháng chiến, cả nước đánh giặc, làm giảm hiệu lực hoặc vô hiệu hoá mặt mạnh và sở trường tác chiến của đối phương là thực dân Pháp. Chúng có một đội quân xâm lược nhà nghề với các phương tiện chiến tranh hiện đại hơn hẳn lực lượng võ trang của chúng ta, chúng muốn đánh nhanh thắng nhanh nhưng cuối cùng đã bị thất bại thảm hại.
Hôm nay, nghiên cứu, học tập, ôn lại những hoạt động quan trọng, đúng đắn, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí minh với Ngày Toàn quốc kháng chiến, thật sự là một việc làm cần thiết và có nhiều ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.

Chúng ta thêm tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng ta.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...