Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi vào đêm ngày 19/12/1946,
nhưng ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện trọng đại này không hề phai mờ, những bài
học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Lời kêu gọi vang lên như một lời hịch của non sông, thôi thúc nhân dân cả nước
đứng lên kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc.
Như
chúng ta đã biết, tuy buộc phải ký Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước
14/9/1946 nhưng thực dân Pháp vẫn không thôi từ bỏ ý đồ thôn tính xâm lược, mở
rộng chiến tranh trên toàn cõi Đông Dương.
Trước
tình hình đó, trong 2 ngày 18 và 19/12/1946 tại thị xã Hà Đông (nay là Quận Hà
Đông, Tp. Hà Nội), Trung ương Đảng và Chính phủ đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ
tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Vào đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ và Trung
ương Đảng ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Hỡi
đồng bào toàn quốc.
Chúng
ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Sau Chiến tranh thế giới lần
thứ II, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống trên thế giới. Các nước phát xít
Đức, Ý, Nhật bị đánh bại còn đế quốc Anh, Pháp tuy thắng trận nhưng đã suy yếu.
Đế quốc Mỹ tận dụng các lợi thế, nhanh chóng vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ
nghĩa, ra sức lôi kéo, tập hợp lực lượng phản động để chống lại các nước xã hội
chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Do vậy, mâu thuẫn chi
phối quan hệ quốc tế lúc này là mâu thuẫn giữa các lực lượng hòa bình, dân tộc,
dân chủ và hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột với lực lượng đế
quốc, phản cách mạng do Mỹ đứng đầu.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (nay là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của các thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế
hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và
Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ
cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
Trên thực tế, chính quyền
cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản
hoành hành. Bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16 trở ra
là 20 vạn quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16 trở vào có hơn 1 vạn quân Anh và hơn 6 vạn
quân Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, lập lại chính quyền tay sai và cướp nước ta lần nữa. “Giặc đói”,
“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”đang đe dọa vận mệnh dân tộc ta.
Với dã tâm cướp nước ta một
lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây
hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở
rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với
việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy
trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời
gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì
chúng ta tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với quân Pháp,
khi thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi
đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán
với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc
lập tự do cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước
ngày 14/9/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh,
Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc, nêu rõ thiện chí hoà bình,
mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy
trì hoà bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ
tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách
cứu vãn hoà bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân
đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta.
Chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam,
trong các ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội.
Ngày 17/12/1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra
vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18/12/1946, tướng Môlie
gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi
công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ
gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ
Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng
ngày 20/12/1946.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc
Việt Nam trước hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là
đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó buộc Đảng, Chính
phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ
khí đứng lên chiến đấu, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập
dân tộc.
Ngày 18 và 19/12/1946, tại
Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Thành phố Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả
nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày
19/12/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các
đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và giờ của cuộc giao chiến trong
toàn quốc. 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được
phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến
trong toàn quốc.
Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày
19/12/1946) được phát đi khắp cả nước:
“Hỡi
đồng bào toàn quốc!
Chúng
ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Hỡi
đồng bào!
Chúng
ta phải đứng lên!
Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi
anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù
phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!
Việt
Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng
chiến thắng lợi muôn năm!
Đó là lời hịch cứu nước, thể
hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho
Tổ quốc.
Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng
(viết xong ngày 12-12-1946) và tác phẩm Kháng
chiến nhất định thắng lợi của
Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và
dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi
đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thủ đô Hà Nội, nơi có Trung
ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi thực dân Pháp có ý định
đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta đã trở thành
chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Sau đòn tiến công
chủ động, đồng loạt và bất ngờ lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, quân và dân Thủ đô
tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Trải qua
60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, tản cư, bảo đảm an
toàn cho nhân dân; chuyển hàng ngàn tấn máy móc, vật tư ra An toàn khu, tạo
tiềm lực ban đầu cho kháng chiến. Quân và dân Thủ đô đã đánh hàng trăm trận,
làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, giam chân chúng dài ngày trong thành phố, tạo
điều kiện để cả nước bước vào chiến tranh, triển khai thế trận chiến đấu lâu
dài.
Phối hợp với Thủ đô Hà Nội,
quân và dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến 16 cũng giành được thắng lợi quan trọng.
Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du
kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi
viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ. Đồng thời, cùng với những cuộc chiến đấu trực tiếp
với quân Pháp, chúng ta thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng,
máy móc vào An toàn khu. Đến tháng 3/1947, các cơ quan của Trung ương Đảng,
Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc an toàn. Việt Bắc trở
thành Thủ đô của cuộc kháng chiến toàn quốc. Ở các địa phương cũng diễn ra việc
di chuyển cơ quan vào các vùng nông thôn hoặc những nơi rừng núi, thiết lập hệ
thống thông tin liên lạc giữa các địa phương và Trung ương ở chiến khu Việt
Bắc. Nhân dân các vùng có chiến sự cũng triệt để thi hành chính sách “vườn
không nhà trống”, tản cư ra vùng tự do.
Chỉ sau một thời gian ngắn,
mọi hoạt động của đất nước đã chuyển hướng theo hoàn cảnh thời chiến và phục vụ
kháng chiến lâu dài. Cuộc chiến
đấu oanh liệt, sáng tạo của quân, dân Thủ đô Hà Nội và của cả nước trong những
ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đã giáng một đòn mạnh vào chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh” và ý chí xâm lược của kẻ thù, làm tiền đề vững chắc cho
những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến.
Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp
hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ động mở đầu
cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời chuyển cả nước vào thời chiến, xây
dựng thực lực và thế trận chiến tranh nhân dân. Căn cứ địa kháng chiến được
củng cố, đời sống đồng bào dần ổn định, bước đầu tổ chức lại sản xuất. Hoạt
động đối ngoại được tăng cường làm cho nhân dân tiến bộ thế giới, trước hết là
nhân dân Pháp hiểu biết về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Về phía Pháp, với bản chất cố
hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường lực lượng, chúng mở rộng vùng
chiếm đóng, ráo riết thực hiện đòn tấn công quyết định để sớm kết thúc chiến
tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương huy
động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu
não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Nhưng dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và tinh thần sáng tạo, quyết tâm cao,
quân và dân ta chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch
Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh,
thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Không thể sớm kết thúc chiến
tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”,
thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá
nhiều cơ sở của ta. Trước âm mưu của địch, chúng ta không ngừng chiến đấu, phối
hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh kinh tế và chính trị; xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng tiềm lực
kháng chiến.
Đến năm 1950, lực lượng kháng
chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến
dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng
một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai
thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa. Sau 29 ngày đêm
chiến đấu kiên cường, quân dân ta đã làm nên thắng lợi quan trọng, tạo ra bước
ngoặt căn bản, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta bước sang giai đoạn phản
công và tiến công. Quân Pháp lui dần về thế phòng ngự.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến
tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp,
ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến này nhằm thực hiện âm mưu ngăn chặn
phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á và sẵn sàng thay Pháp để kéo dài
chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng
2/1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là tiêu diệt
thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất
hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến công chiến lược, quân
dân ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường như Hòa
Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,… Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch
lún sâu vào thế bị động. Trong khi đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày
càng được củng cố, lực lượng vũ trang ba thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ
lực ngày càng vững mạnh, hậu phương được củng cố là chỗ dựa, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của tiền tuyến.
Hòng xoay chuyển tình thế,
dựa vào viện trợ Mỹ, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động, tiến
tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trước sự
chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh, sự chiến đấu
kiên cường dũng cảm của quân và dân ta, kế hoạch trên bị thất bại, buộc Nava
phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm
khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Nhưng sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên
cường, quân và dân ta đập tan cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp, tạo
nên “cột mốc bằng vàng” trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, kết thúc
oanh liệt cuộc tiến công Chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, tạo điều kiện thuận
lợi cho đấu tranh ngoại giao đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến
tranh ở Đông Dương.
Miền Bắc nước ta được hoàn
toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Khi đất nước ta mới giành
được chính quyền chưa được bao lâu thì lại rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
định đúng tình hình, đưa ra đường
lối đúng đắn, phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
giành được thắng lợi vẻ vang. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cả dân tộc ta đang ra sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất nước sau 30 năm đổi mới đã có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, vẫn còn nhiều khó khăn,
thách thức.
70 năm đã trôi qua nhưng khí
thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch
sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của thời gian nhưng
giá trị lịch sử “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân,
đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc,
giữ nước giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc.
Ngày nay, Lời kêu gọi thiêng
liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất
thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định
chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” sẽ ngày càng khẳng định vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế.
Phát huy giá trị lịch sử
của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” năm 1946 gợi mở những ý nghĩa sâu xa
đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nền quốc phòng toàn dân ở
nước ta xây dựng, sử dụng và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể quốc gia -
dân tộc vào công cuộc phòng thủ đất nước. Lực lượng quốc phòng có nòng cốt là
lực lượng vũ trang (quân đội nhân dân và công an nhân dân), nhưng không thuần
túy chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà kết hợp với mọi lực lượng khác để tạo
thành lực lượng QPTD. Tiềm lực quốc phòng dựa trên “cốt vật chất” là tiềm lực
kinh tế, mũi nhọn là tiềm lực quân sự, nhưng không thuần túy chỉ dựa vào tiềm
lực kinh tế, tiềm lực quân sự mà kết hợp với mọi tiềm lực khác, đặc biệt là
tiềm lực chính trị - tinh thần, để tạo thành tiềm lực QPTD, toàn diện. Sức mạnh
quốc phòng có “quả đấm sắt” là sức mạnh quân sự, nhưng không thuần tuý chỉ dựa
vào sức mạnh quân sự mà kết hợp với mọi sức mạnh khác để tạo thành sức mạnh
tổng hợp của nền QPTD, toàn diện. Thế trận quốc phòng không chỉ là thế trận
được xây dựng trên các khu vực phòng thủ, các địa bàn chiến lược trọng yếu,
những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển, đảo… mà còn là thế trận
được xây dựng từ cơ sở chính trị - xã hội, hình thành “thế trận lòng dân” ngay
trong thời bình làm nền tảng vững chắc, “phên giậu” lâu bền của thế
trận QPTD, toàn diện, để phòng khi chiến tranh xâm lược xảy ra có thể từ
đó nhanh chóng chuyển hoá thành thế trận chiến tranh nhân dân chống xâm lược -
nguồn gốc và bí quyết sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam. Đại hội XI của
Đảng khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân
dân, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân
dân vững chắc. Phát triển đường lối nghệ thuật, nghệ thuật quân sự chiến tranh
nhân dân và lý luận khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng quân đội và công an nhân dân cách
mạng… tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được
nhân dân tin yêu. Xây dựng quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có
sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng
khắp”
Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc
kháng chiến là dịp để chúng ta ôn lại và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét