Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi khi đất nước gặp họa ngoại xâm, toàn thể dân
tộc ta đều nhất tề đứng dậy chống giặc cứu nước, bảo vệ Tổ quốcthiêng liêng của
dân tộc. Vẫn còn đây những lời hiệu triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch
tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”,… của cha ông ta bao đời để lại đã khẳng định ý
chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với chân lý “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”.
Kế thừa truyền thống chống giặc, giữ
nước của dân tộc, đứng trước vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua bằng một
quyết định quan trọng thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946-
ngày toàn quốc kháng chiến.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đã phải đối phó với
muôn vàn khó khăn. Bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16
trở ra là 20 vạn quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16 trở vào có hơn 1 vạn quân Anh và
hơn 6 vạn quân Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, lập lại chính quyền tay sai và cướp nước. Bên trong, “giặc
đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành.Tình thế đất nước ta lúc bấy giờ đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được
sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp quay lại nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai.Sau đó chúng mở rộng đánh chiếm
Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách
mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hoà hoãn với
quân Tưởng để rảnh tay dối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hoà hoãn với
Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc
chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc, rồi
ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946. Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên
của Liên hợp quốc, nêu rõ thiện chí hoà bình, mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận
những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hoà bỉnh. Đồng thời, Người
liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp
người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh cuộc chiến
tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa
bình của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15
và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946,
chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu
ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18/12/1946, tướng Môlie gửi cho ta hai tối
hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng
ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội.
Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì
quân Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20/12/1946.
Trước tình thế đó, kẻ thù đã buộc dân tộc Việt Nam ta trước
hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến
cùng để giành lấy tự do và độc lập. Nhận định đánh giá chính xác tình hình và
theo nguyện vọng thiết tha của toàn dân tộc, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhân dân ta quyết tâm đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, phát động cuộc
kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Ngày 18 và 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc
Thành phố Pĩà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19/12/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Võ
Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về
ngày và giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu
bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân Thủ đô Hà Nội
nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.Sáng ngày 20/12/1946, Lời
kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày
19/12/1946) được phát đi khắp cả nước:
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch cứu nước, từng câu từng
chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Người nhanh chóng thấm nhuần
sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam, động
viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng
chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Đáp lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng
chiến đúng đắn do Đảng vạch ra, thanh niên cả nước cùng toàn dân nhất tề đứng
lên giết giặc cứu nước. Đêm 19/12/1946, tiếng súng giết giặc của thủ đô Hà Nội
đã nổ, mở đầu cuộc kháng chiến. Quân và dân cả nước cũng đã vùng lên kháng chiến
và giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giữ vững độc lập, chủ quyền
dân tộc ta. Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Đảng, theo lời kêu gọi của Hồ
Chủ tịch, toàn dân ta anh dũng bước vào cuộc chiến tranh yêu nước thần kỳ để rồi
chín năm sau, chúng ta đã làm nên một Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động
địa cầu”. Ngày 20/7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, giặc Pháp phải rút
khỏi miền Bắc, một nửa nước thân yêu của chúng ta được giải phóng và đi lên chủ
nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước thắng lợi
sau này, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất tổ quốc Việt Nam.
Đã 70 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến”, nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi bất hủ ấy vẫn mãi trường
tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam, mãi là lời hịch của non sông, một văn kiện
mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, thể hiện ý
thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường cách
mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét