Mỗi dịp
tháng 12 đến, trong tâm thức những người con đất Việt lại được đánh thức bởi lời
kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đã gần 70 năm trôi
qua, đất nước đã kinh qua hai cuộc chiến tranh nhiều gian khổ và hi sinh, với
những biến đổi to lớn theo xu thế của thời đại. Nhưng khí thế hào hùng của ngày
19/12/1946 như một bản anh hùng ca cách mạng vẫn còn ngân vang mãi trong chiều
dài lịch sử dân tộc như nhắc nhở chúng ta về tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu
kiên cường, bất khuất trong gìn giữ non sông đất nước.
Ngược
về lịch sử, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, nhân dân ta được hưởng tự do và làm chủ vận mệnh của đất nước. Đó là điều
kiện thuận lợi căn bản nhất để nhân dân ta thực hiện thành công nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên,
chính quyền non trẻ phải đối diện với tình thế hết sức hiểm nghèo, đó là tình
trạng "thù trong, giặc ngoài" cùng những thách thức, khó khăn về kinh
tế, tài chính, văn hóa - xã hội, đặt chính quyền cách mạng như “ngàn cân treo
sợi tóc”
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp
bóng quân Anh vào giải giáp phát xít Nhật đã gây hấn nổ súng ở Nam bộ, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với
Chính phủ đã kiên trì, khéo léo giữ độc lập, hòa hoãn với thực dân Pháp để củng
cố lực lượng chuẩn bị cho kháng chiến.
Ngày
6/3/1946, tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ
bộ và tạm ước 14/9/1946. Tuy nhiên, Pháp đã bội ước. Chúng ráo riết tăng cường
lực lượng và đến tháng 11/1946, số quân của thực dân Pháp đã lên tới 10 vạn.
Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ
đô Hà Nội. Dã tâm gây hấn của thực dân Pháp bộc lộ rõ rệt nhất khi chúng gửi
tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí, chậm nhất là ngày 20/12/1946, quân Pháp sẽ
nắm quyền cai quản Hà Nội.
Trước
tình thế cấp bách đó, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân
dân, ngày 18 và 19/12/1946, hội nghị mở rộng BCH Trung ương Đảng họp khẩn cấp ở
Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến và chỉ ra đường lối
kháng chiến lâu dài.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Hỡi
đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi
anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt
máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…”
Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một luồng gió thổi bùng ngọn
lửa căm thù giặc, tạo sức mạnh, tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Tiếp tục khẳng định tinh thần “Nam quốc
sơn hà Nam Đế cư” của tổ tiên ta, là sự thể hiện
ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ. Đó là lời của Tổ quốc, của dân tộc thiết tha kêu gọi con Lạc, cháu Hồng
đứng lên giữ nước; đồng thời, cũng là lời tuyên bố đanh thép với bọn thực dân
cướp nước về ý chí, sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Vào 20h ngày 19/12/1946, tại Hà Nội, quân và
dân ta đã kiên cường chiến đấu bảo vệ thủ đô với tinh thần “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Ngày 19/12/1946 trở thành ngày mở đầu cho cuộc kháng chiến
trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp, đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son
chói lọi về tinh thần yêu nước quật khởi của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước nồng nàn,
lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc ta hun
đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, một lần nữa được khơi dậy,
phát huy cao độ và tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn. Đặc biệt, quân và dân thủ
đô Hà Nội đã chiến đấu không tiếc máu xương, của cải để bảo vệ Trung ương Đảng
và Chính phủ an toàn về chiến khu. Cùng với thủ đô Hà Nội, các tỉnh, thành từ 3
miền Bắc, Trung, Nam đã đứng lên chiến đấu, làm tiêu hao sinh lực địch và khẩn
trương xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cách đây gần 70 năm,
đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài,
tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc
của Bác vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới, hoà bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc khó
lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu
vực phát triển năng động, nhưng còn nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp
lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Ở trong nước, những thành tựu, kinh
nghiệm hơn 30 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp của đất
nước lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách
thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Đảng ta xác
định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển
đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ
vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng
phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Để có thể động viên và phát huy sức mạnh khối
đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc như trong công cuộc chống ngoại xâm trước đây
vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng hiện nay, chúng ta cần coi trọng giáo dục
sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân; đồng thời,
phải thực sự xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó có các hình thức và cơ chế
để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực hoạt động: kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội…; mọi cán bộ, đảng viên, phải thực sự là “công bộc” của
dân. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền nhà nước phải luôn đặt lợi
ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết. Chỉ có như vậy, chúng ta mới tạo
được động lực to lớn để toàn dân phát huy mọi tiềm lực vật chất và tinh thần
trong sự nghiệp xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đây cũng là cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Ngày 25/11/2016, tại Hà Nội trong tham luận gửi đến hội
thảo khoa học cấp Quốc gia với chủ đề: “Toàn quốc kháng chiến - Ý chí bảo vệ
độc lập, tự do và bài học lịch sử do Bộ Quốc phòng chủ trì, đại tướng Ngô Xuân
Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng khẳng định: Tuy sự kiện lịch sử trọng đại này đã lùi
xa, song ý chí sắt đá, tinh thần quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, sẵn sàng “hy sinh đến
giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” vẫn
vẹn nguyên trong mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội. “Phát huy tinh thần toàn
quốc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xây dựng “cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu, tạo cơ sở cho việc thực hiện quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ
quốc trong mọi tình huống”
“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”
đã để lại cho chúng ta một bài học quý giá, đồng thời cũng là lời cảnh báo đối
với các thế lực xâm lược rằng: Mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì cả dân
tộc Việt Nam sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một dân tộc hơn 92
triệu người, với ý chí, quyết tâm thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, chúng ta có đủ sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần để
đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bất kể chúng lớn mạnh thế nào và từ đâu tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét