Lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam qua hơn bốn nghìn năm là lịch sử
chống giặc ngoại xâm. Nước Việt ta từ ngàn xưa, kể từ khi khai sinh lập địa đã
phải chống chọi với biết bao kẻ thù lớn mạnh, hung hăng, tàn bạo hơn ta nhiều lần.
Nhưng truyền thống yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng với tính chính
nghĩa của các cuộc chiến tranh, dân tộc ta đã chứng kiến sự ôm hận, co đầu, rụt
cổ rút chạy của những kẻ cướp nước hèn hạ. Tổng kết lại những chiến thắng oanh
liệt của lịch sử chống giặc ngoại sâm, không thể không nhắc tới ba lần đánh thắng
quân Nguyên Mông của Nhà Trần cách đây hơn bảy trăm năm và cuộc kháng chiến chống
Thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm giữa thế kỷ 20. Không phải
ngẫu nhiên mà trong hàng trăm chiến thắng oanh liệt của dân tộc chống lại kẻ
thù xâm lăng mà ở đây tác giả chỉ nhắc đến hai cuộc kháng chiến tiêu biểu kể
trên. Khi đi sâu nghiên cứu hai cuộc kháng chiến cách nhau gần 7 thế kỷ này
chúng ta mới thấy có nhiều điểm chung hết sức thú vị, song trong khuôn khổ bài
viết này, tác giả muốn nhắc đến một điểm chung đó là: Để bắt đầu cho cuộc chiến
tranh thần thánh chống ngoại xâm thì quân và dân đều được khích lệ tinh thần bằng
những lời động viên, cổ vũ hết sức to lớn, sâu sắc của những vị lãnh tụ, lãnh đạo
các cuộc khởi nghĩa, đó là những lời “hịch” của non sông, lời hiệu triệu toàn
dân, toàn quân nhất tề đứng lên chống quân xâm lăng.
Trước hết nói về “Dụ chư tỳ tướng hịch văn” thường được gọi là “Hịch Tướng Sĩ”
của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu
Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Nhân Tông thấy
thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng: “Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì
dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn
dân?”
Hưng
Đạo Vương tâu: “Bệ hạ nói câu ấy là lời
nhân đức, nhưng Tôn miếu Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy
chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!”
Vua
Trần Nhân Tông nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20
vạn quân Nam, và thảo bài “Dụ chư tỳ tướng hịch văn”, (thường
gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học
tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư
yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.
Lời
Hịch của một vị tướng đã làm toàn quân, toàn dân như thức tỉnh, nhất tề hăng
say rèn cán, luyện binh, trên dưới một long, đồng cam cộng khổ cùng triều đình
nhà Trần đứng lên chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Cũng
vào những ngày cuối năm của 662 năm sau, kể từ ngày Hưng đạo đại vương Trần
Quốc viết bài hịch của non sông. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
lên một bài hịch mang tầm vóc lịch sử, đó là “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”. Đã 70 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời
kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi
bất hủ ấy vẫn mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam, mãi là lời hịch của
non sông, một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong
mọi thời đại, thể hiện ý thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin
vững bền về con đường cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà
nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay nhân dân;
nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Song, chính
quyền cách mạng non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, tình thế
cách mạng lúc này mong manh như “trứng để đầu gậy” phải đối mặt với nhiều kẻ
thù cùng lúc: Giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm.
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân
Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến,
mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã ký
với đại diện chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ
đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phông-ten-nơ-blô. Cuộc
đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị
Việt Nam. “Còn nước còn tát”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Tạm
ước ngày 14-9-1946. Ngày 16-9-1946, Người rời cảng Tu-lông (Pháp) trở về nước.
Ngày 16-10, Người gặp Đắc-giăng-li-ơ ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn
trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11 năm
1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại
Hà Nội, quân đội thực dân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở
Hà Nội trong các ngày 15, 16-12-1946 như đốt nhà thông tin ở phố Tràng Tiền,
chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12-1946, quân
Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây ra vụ
tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở cầu
Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối
hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại
trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát
an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên bố nếu các yêu cầu
trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946
quân Pháp sẽ hành động.
Trước tình hình đó, ngày 18 và
19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng
do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên
phạm vi toàn quốc.
Vào hồi 20 giờ ngày
19/12/1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong
toàn quốc. Ngày 20/12/1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát
đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch.
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt
đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu tổ quốc, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm”.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm”.
Toàn văn “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị,
đanh thép, có sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng
mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng
chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Bác nhanh chóng thấm nhuần
sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; là
hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí có sẵn, với một ý
chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ dứt khoát và kiên
định: “Thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Trong cuộc đấu tranh chống kẻ
xâm lược, không còn con đường nào khác ngoài việc dùng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng Khi đã buộc phải kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu:
“Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”.
Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm
của nhân dân ta: “Thà hy sinh
tất cả, chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Kết thúc lời kêu gọi, Hồ Chí
Minh khẳng định niềm tin tất thắng:
“Dù phải gian lao kháng
chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc
ta.
Việt Nam độc lập và thống
nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn
năm!”
Đúng như dự báo thiên tài của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau chín năm vào năm 1954 - “Chiến thắng Điện Biên Phủ
lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chứng tỏ sức mạnh của lòng yêu nước
phi thường của quân và dân ta, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc gian khổ chiến đấu và hy sinh dành lại một nửa
Việt Nam hòa bình làm tiền đề cho một Việt Nam độc lập và thống nhất. Ba mươi
năm sau vào mùa Xuân 30/4/1975, đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm
cờ chiến thắng lên nóc Dinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười nghìn ngày
đem lại độc lập tự do cho dân tộc, Bắc - Nam thống nhất, sum họp một nhà.
Có thể nói, ngày toàn quốc
kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn
đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành
chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân
địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát
động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy
trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật
đúng đắn, quả cảm và sáng tạo.
70 năm đã trôi qua nhưng khí
thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch
sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng
giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân
đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ
nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc. Ngày nay, Lời kêu gọi
thiêng liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm
tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự
nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ
thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực và trên trường
quốc tế.
Kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc
kháng chiến, đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại những bài
học sâu sắc của lịch sử, phát huy
tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng tạo nguồn động lực to lớn
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng đưa đất nước bước ra khỏi
tình trạng tham nhũng, lãng phí, nghèo nàn lạc hậu, phát triển bền vững, hội
nhập sâu rộng và toàn diện với nền kinh tế thế giới, sánh vai cùng các cường
quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuân sẽ mãi mãi vang vọng non sông. Hào khí Đông A còn mãi với thời gian
Trả lờiXóa