Chủ
tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới, Người là kết tinh của tất cả phẩm chất cao quý nhất của dân tộc Việt Nam,
của khát vọng dân tộc Việt Nam, cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương
sáng ngời về phẩm chất đạo đức cách mạng, về ý chí kiên trì, bền bỉ, phấn đầu
vì một mục tiêu duy nhất đó là “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập
cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều
tôi hiểu” và “Ham muốn tột bậc của
tôi là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. “Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến” là một trong những di sản vô cùng quý giá mà Người để
lại cho toàn Đảng, toàn Dân và toàn Quân ta, là động lực to lớn, cổ vũ tinh
thần cho dân tộc ta trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là quá trình dựng nước đi đôi với
giữ nước, đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng hết sức vẻ vang. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc ta mãi mãi khắc ghi những
giờ phút sục sôi, nhân dân nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi
theo lời hiệu triệu của “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”…
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam
Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính
quyền đã thuộc về tay nhân dân lao động, người dân Việt Nam từ đây trờ thành
những người chủ thực sự của đất nước. Song một chính quyền non trẻ, một dân tộc
đói, nghèo, dốt, hậu quả từ chính sách ngu dân và sự bóc lột tàn bạo, kiệt quệ
của thực dân Pháp. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm bủa vây, tình hình đất
nước trở nên “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong thời điểm đó, thực dân Pháp lại tiếp
tục dã tâm một lần nữa biến Việt Nam thành thuộc địa. Sau tròn 87 năm, một lần
nữa thực dân Pháp lại nổ súng cướp nước ta vào ngày 23.9.1945. Chúng liên tục
gây hấn, tàn sát đồng bào ta, mặc dù Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
trương theo đuổi hòa bình “ còn nước còn tát” để tránh đổ máu cho hai dân tộc
Việt- Pháp. Đáp lại thiện chí đó, thực dân Pháp càng thể hiện rõ dã tâm hơn,
bắt buộc dân tộc ta phải đứng lên đánh giặc.
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước
ta lần nữa”.
Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Đó là lời tuyên chiến với kẻ thù, đồng thời,
đó cũng là tiếng lòng của hàng triệu người dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
của dân tộc Việt Nam được sống trong độc lập, tự do, hòa bình.
Trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược,
không có cách nào khác đó là cả dân tộc đoàn kết một lòng “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt
đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu tổ quốc”, sử dụng bạo lực cách mạng “ ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Với một niềm tin tất thắng, người khẳng định
rằng “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng
với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam
độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi muôn năm”.
Toàn văn “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị, đanh thép, có
sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong
giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”,
từng câu từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Bác nhanh
chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự
hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của
nhân dân Việt Nam; là hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí
có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ dứt
khoát và kiên định: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đúng như dự báo thiên
tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau chín năm vào năm 1954 - “Chiến thắng Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chứng tỏ sức mạnh của lòng
yêu nước phi thường của quân và dân ta, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc gian khổ chiến đấu và hy sinh dành lại
một nửa Việt Nam hòa bình làm tiền đề cho một Việt Nam độc lập và thống nhất.
Ba mươi năm sau vào mùa Xuân 30/4/1975, đội quân bách chiến bách thắng của
Người đã cắm cờ chiến thắng lên nóc Đinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh
mười nghìn ngày đem lại độc lập tự do cho dân tộc, Bắc - Nam thống nhất, sum
họp một nhà.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến
19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận
chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo
nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai
tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch
sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn,
quả cảm và sáng tạo.
70 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ( 19/12/2016- 19/12/2016) vẫn có giá trị
lịch sử và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được
phát động đúng thời điểm như một cương lĩnh vang dậy non sông, đất nước làm
thức tỉnh lương tri và nhân loại tiến bộ thể hiện ý thức sâu sắc giá trị của
độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường cách mạng mà toàn Đảng, toàn
dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
là kim chỉ
nam cho mọi hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân
Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất
định chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực
và trên trường quốc tế. Lịch sử cũng vẫn âm vang lời Bác gọi, đầy ắp hào khí, kết
tinh của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, để cả dân tộc vùng lên, viết tiếp
những trang sử mới, rất đỗi hào hùng.
Kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến,
đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại những bài học sâu sắc
của lịch sử, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng
tạo nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhanh chóng
đưa đất nước bước ra khỏi tình trạng tham nhũng, lãng phí, nghèo nàn lạc hậu,
phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng và toàn diện với nền kinh tế thế giới,
sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét